- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 10
- Phần 11
- Phần 12
- Phần 13
- Phần 14
- Phần 15
- Phần 16
- Phần 17
- Phần 18
- Phần 19
- Phần 20
- Phần 21
- Phần 22
- Phần 23
- Phần 24
- Phần 25
- Phần 26
- Phần 27
- Phần 28
- Phần 29
- Phần 30
- Phần 31
- Phần 32
- Phần 33
- Phần 34
- Phần 35
- Phần 36
- Phần 37
- Phần 38
- Phần 39
- Phần 40
- Phần 41
- Phần 42
- Phần 43
- Phần 44
- Phần 45
- Phần 46
- Phần 47
- Phần 48
- Phần 49
- Phần 50
- Phần 51
- Phần 52
- Phần 53
- Phần 54
- Phần 55
- Phần 56
- Phần 57
- Phần 58
- Phần 59
- Phần 60
- Phần 61
- Phần 62
- Phần 63
- Phần 64
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 52)
Pháp Sư Tịnh Không
Ý nghĩa biểu pháp của Bồ Tát Di Lặc rất sâu. Đời sống của Hòa thượng Bố Đại không hề khác nhau với Thích Ca Mâu Ni Phật, không những Ngài không có đạo tràng mà Ngài cũng không có nơi ở, ngay đến danh tánh cũng không có, trong lịch sử danh tánh cũng không có, pháp danh cũng không có, mỗi ngày vác một cái túi vải to đi dạo khắp nơi, cho nên mọi người gọi Ngài là Bố Đại Hòa Thượng, pháp danh không biết, họ gì tên gì không hề biết, nhà ở nơi đâu cũng không biết. Có người thỉnh giáo với Ngài là pháp sư tu hành phải bắt tay vào từ chỗ nào? Ngài liền để cái túi vải xuống đất, duỗi hai tay ra, không nói một câu nào. Cái ý này nói gì vậy? Là buông bỏ, người này thể hội được rồi: “Oh! Buông bỏ”. Sau khi buông bỏ rồi thì làm sao? Ngài vác cái túi vải lên vai liền bỏ đi. Đây lại biểu thị cái gì? Sau khi buông bỏ rồi phải đề khởi, buông bỏ được mà không lấy lên được thì không tác dụng. Sau khi buông bỏ mà không chịu nhấc lên là Tiểu thừa, sau khi buông bỏ lại có thể nhấc lên là Bồ Tát. Nhấc lên là gì? Cứu độ chúng sanh, vì chúng sanh phục vụ, buông bỏ không vì chính mình, hoàn toàn vì chúng sanh, đó là hạnh Bồ Tát, như vậy mới có thể tương ưng với pháp. Cho nên người chân thật tu hành, không chỉ là xuất gia mà tại gia cũng không ngoại lệ, đời sống nhất định phải thành thật, phải tiết kiệm, có phước báo thì cùng hưởng với tất cả chúng sanh thì cái phước báo đó là phước báo chân thật. Phước báo của Thích Ca Mâu Ni Phật là vô lượng vô biên, cùng hưởng với tất cả chúng sanh. Ngài là mô phạm tốt, là tấm gương tốt của chúng ta.
Xây đạo tràng là sự nghiệp của Bồ Tát, những Bồ Tát nào vậy? Bồ Tát tại gia. Bồ Tát tại gia xây đạo tràng, mời Bồ Tát xuất gia đến giảng kinh nói pháp, Bồ Tát xuất gia không xây đạo tràng. Chúng ta chẳng phải thường hay đề xướng một môn thâm nhập hay sao? Phải chuyên tinh. Nếu như Bồ Tát xuất gia còn phải làm kinh doanh những sự việc này, làm sự việc hành chánh đạo tràng, thì họ làm gì có tâm nghiên cứu kinh giáo, kinh của họ làm gì có thể giảng được tốt chứ? Sự việc này phải phân công. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, không nên để người xuất gia quản lý những việc hành chánh này, để cho họ chuyên tâm nghiên cứu giáo lý, hoằng dương Phật pháp. Hiện tại Phật pháp ở thế gian như vậy mà suy. Có rất nhiều người thế gian sanh ra hiểu lầm nghiêm trọng đối với Phật pháp, nguyên nhân này do đâu? Không có người giảng, cho nên mới sanh ra hiểu lầm. Nếu như có rất nhiều người ở các nơi tuyên dương thì chánh pháp cửu trụ, đây là phải nhờ vào Bồ Tát Hiền Hộ tại gia. Chúng ta ở phía trước đã dùng hết sáu giờ để giảng qua Bồ Tát Hiền Hộ, hy vọng các vị phát tâm làm Bồ Tát Hiền Hộ. Bạn phải làm Bồ Tát thật, không nên làm Bồ Tát giả, Bồ Tát giả tương lai sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ. Nếu chân thật tường tận thì tất cả vì Phật pháp, vì chúng sanh, không vì một người.
Vào những năm gần đây, tôi đã từng gặp người giả danh nghĩa của tôi ra bên ngoài hóa duyên, nói pháp sư Tịnh Không muốn tặng học bổng, nên đến khắp nơi hóa duyên. Tiền hóa duyên được không đưa tôi một xu nào, họ đều lấy hết. Làm vậy quyết định đọa địa ngục A Tỳ. Pháp sư Tịnh Không phải đến nơi đâu đó không có vé máy bay, cũng đi khắp nơi hóa duyên, sau khi hóa duyên được cũng đều cho vào hầu bao của họ, đó là làm sự nghiệp của địa ngục. Ngày trước tôi đã từng nói qua, trên văn tự đều có ghi chép, ngay trong một đời của tôi, từ trước đến giờ chưa từng hóa duyên của ai một xu tiền nào, nếu như có người dùng danh nghĩa của tôi, hay dùng bất cứ lời nói nào hóa duyên cho tôi thì toàn là giả, các vị vạn nhất không nên bị người ta lừa. Các vị bị người ta lừa, tôi chỉ ở bên cạnh mỉm cười, không liên quan với tôi. Người kia biết lừa, bạn thật bị người ta lừa, tôi ở bên cạnh xem màn kịch, xem thấy họ tạo tác tội nghiệp, không cách gì cứu giúp. Chính mình nhất định phải giác ngộ. Ngày nay các vị phải chân thật phát tâm làm việc tốt, nên đến nơi đâu để quyên tiền? Đến Cư Sĩ Lâm để quyên, người ta còn đưa giấy chứng nhận cho bạn, việc này không phải là giả. Người giả danh, giả nghĩa ở bên ngoài lừa gạt chúng sanh không phải không có, đích thực là có. Chúng ta phải nơi nơi tỉ mỉ cẩn trọng thì quyết không chịu thiệt.
Mọi người ghi nhớ, tôi học Phật, cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật không hề hóa duyên với bất cứ ai. Ngày trước tôi ở Đài Loan cũng có hai đạo tràng nhỏ, đạo tràng nhỏ không cần hóa duyên, tự nhiên liền sẽ thành tựu. Ở Hoa Kỳ, vốn dĩ chúng tôi có một cái phòng rất nhỏ ở trong khu nhà ở, do một cư sĩ cúng dường cho chúng tôi, thế nhưng ông có mượn tiền của ngân hàng, ông chỉ trả có kỳ đầu, về sau tiền đó chúng tôi chính mình phải trả. Việc này được lão cư sĩ Hạ Cảnh Sơn biết được, lão cư sĩ Hạ tìm một hộ pháp của ông, nghe nói tình hình này của chúng tôi nên đưa đến cho chúng tôi bảy mươi ngàn, vấn đề của chúng tôi liền được giải quyết. Về sau lại có người biết, dần dần mang tiền đến, từ từ đạo tràng này mở rộng lớn hơn, quyết không phải chúng tôi hóa duyên. Hơn nữa, tôi nói với các vị đồng tu, tôi không hóa duyên nhỏ, hóa duyên nhỏ thật là khó chịu, bạn mấy ngàn đồng này, anh ấy mấy trăm đồng, người kia mấy chục ngàn đồng, thật quá khổ. Tôi muốn hóa duyên xây dựng một cái đạo tràng cần phải có hai trăm ngàn, tôi tìm một người đưa hai trăm ngàn đến thì tôi liền thành tựu, chúng ta cảm ân trên bia công đức ghi tên một người là được rồi, không cần phải ghi quá nhiều người, làm gì mà phiền phức đến như vậy. Duyên chưa đủ thì quyết định không nên làm, thì bạn liền sẽ tự tại vô ngại. Chúng ta xem thấy bao nhiêu vị lão hòa thượng này, cả đời làm được rất khổ cực, vì đạo tràng mà đi khắp nơi quyên góp, đến khắp nơi hóa duyên, rất là khổ cực. Tôi không làm những việc này, tôi không cần đạo tràng. Không có đạo tràng thì không việc gì, có đạo tràng thì khi bạn chết đi, người đời sau sẽ đánh nhau, tranh đoạt tài sản đánh nhau lỗ đầu chảy máu. Đây là đạo tràng gì vậy? Đạo tràng đấu tranh! Chẳng phải bạn tạo tội nghiệp hay sao? Chính mình tạo tội nghiệp còn chưa đủ, để lại cái họa cho đời sau, thế hệ sau. Tôi không có đạo tràng, sau khi tôi chết rồi không có bất cứ thứ gì, mọi người không có thứ gì để tranh đoạt, vậy thì tốt, không có cái lo về sau nên được thanh tịnh. Luôn phải như pháp, phải như lý.
Cái điểm này tôi được sự khải thị từ Thích Ca Mâu Ni Phật, được sự giáo huấn từ nơi lão pháp sư Ấn Quang. Bạn thấy Ấn Tổ cả đời không nhận đệ tử xuất gia, không truyền giới, không làm trụ trì. Từ khi tôi phát tâm học Phật, tôi đã ngưỡng mộ pháp sư Ấn Quang, tôi muốn học tập với Ngài. Hiện tại các vị đều biết, có không ít người nói xuất gia với tôi, đó là giả, không phải là thật. Họ xuất gia với ai vậy? Họ xuất gia với Quán Trưởng, không phải xuất gia với tôi, mượn danh nghĩa của tôi để xuất gia mà thôi. Chính tôi đích thực không hề nhận một người đệ tử xuất gia nào, cho nên tôi đối với những người xuất gia trong đạo tràng này, tôi đều rất là cung kính. Tại sao vậy? Chúng tôi là bạn cùng ở chung với nhau, không phải thầy trò, là bạn đồng tu, đôi bên rất cung kính lẫn nhau, quan hệ của chúng tôi phân định rất rõ ràng. Đây là nói đến hành vi đời sống của chúng ta, là chân thật tu hành, thì bạn liền hiểu được niệm Phật phải niệm như thế nào.
Niệm Phật đường mở ra, tôi đã nói rất nhiều lần với mọi người, niệm Phật đường của chúng ta có chư Phật Bồ Tát ở trong đó niệm Phật. Có yêu ma quỷ quái hay không vậy? Cũng có vài người. Tại vì sao Phật Bồ Tát không đuổi yêu ma quỷ quái này đi? Phật Bồ Tát từ bi, cũng hy vọng yêu ma quỷ quái quay đầu là bờ, cũng không thể để cơ hội này luống qua, chịu niệm luôn là tốt hơn không. Thế nhưng, những yêu ma quỷ quái này nếu như không làm loạn ở trong đó thì không hề gì, họ trường kỳ huân tu, tương lai họ cũng có thể vãng sanh làm Phật; nếu như tâm hạnh của họ bất chánh không chịu cải sửa thì tự nhiên có thần hộ pháp đến lúc sẽ trừng phạt họ, đây là đạo lý đương nhiên. Cho nên, nếu chúng ta muốn tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, tiêu trừ tai nạn của nhà mình cho đến giúp đỡ thế gian này, giúp đỡ thế giới này, tiêu trừ tai nạn nghiệp tập của chúng sanh thì chỉ có phương pháp duy nhất là nỗ lực niệm Phật.
Niệm Phật cần phải ba nghiệp thân ngữ ý đều có thể tương ưng với Phật. “Phật” là gì vậy? Phật chính là một bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Quy nạp của một bộ kinh Vô Lượng Thọ này chính là trên đề kinh đã nói: “Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác”, phía trước tôi thêm vào hai chữ “Chân Thành”, phía sau thêm vào hai chữ “Từ Bi”, mười chữ này chính là rút gọn của kinh Vô Lượng Thọ, chính là kinh nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ ở trong đó. Chúng ta phải có thể tương ưng, một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật. Khởi tâm động niệm tương ưng, lời nói việc làm cũng phải tương ưng, như vậy mới gọi là thật niệm. Quyết không phải là hữu khẩu vô tâm, cái niệm đó không có ích gì, người xưa đã nói là “đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”. Trong miệng niệm A Di Đà Phật, trong lòng vẫn là phải quấy nhân ngã, vẫn có tự tư tự lợi, vẫn có tham sân si-mạn, còn nghĩ đến làm những việc tổn người lợi mình, niệm Phật như vậy quả báo vẫn là ở địa ngục A Tỳ. Lời nói này không phải tôi nói, là pháp sư Quán Đảnh khoảng năm Càn Long nhà Thanh đã nói. Ngài ghi chép điều này trong kinh Lăng Nghiêm Bồ Tát Đại Thế Chí Viên Thông Chương Sớ Sao. Cuối cùng Ngài làm một kết luận, niệm Phật một trăm loại quả báo. Quả báo thứ nhất chính là niệm Phật đọa địa ngục A Tỳ.
Những năm đầu tôi học kinh giáo với lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam, tôi đọc được quyển sách này, cảm thấy rất là nghi hoặc, niệm Phật là việc tốt, vì sao phải đọa địa ngục? Niệm Phật vì sao có thể niệm đến đi vào địa ngục? Tôi thưa hỏi với lão sư Lý, tôi đem sách này mang đến cho lão sư Lý xem, lão sư Lý nói: “Vấn đề này là một vấn đề lớn, tôi không nói riêng với ông, đến khi giảng kinh sẽ nói với đại chúng”. Niệm Phật vì sao có thể niệm đến đi vào địa ngục? Miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm toàn là tư tưởng hành vi đều không đúng pháp, đều là tự tư tự lợi, tổn hại chúng sanh, tổn hại Phật pháp, chỉ là những việc như vậy, tuy niệm Phật vẫn là cứ phải đọa địa ngục. Cho nên, kết luận sau cùng của pháp sư Quán Đảnh rất đáng được chúng ta cảnh tỉnh.
Học Phật không dễ dàng. Thế Tôn ở trong A Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung kinh, đề kinh này cũng tương đối rõ ràng. “Sự Phật” chính là phụng sự Phật Bồ Tát, cũng chính là ngày nay chúng ta gọi là học Phật. Học Phật rốt cuộc là tốt hay là không tốt? “Kiết hung”, kiết là tốt, hung là không tốt, học Phật rốt cuộc là tốt hay là không tốt vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta giải đáp vấn đề này. Bộ kinh này là thuộc về kinh Tiểu thừa, Phật nói câu thứ nhất liền dạy chúng ta học Phật nhất định phải theo một vị minh sư, đây chính là then chốt một đời này của chúng ta thành công hay thất bại. Minh sư, không phải là danh tiếng lớn, tên tuổi cao, không ích gì. Phật nói với chúng ta cái minh đó là quang minh, không phải là danh của danh tiếng, mà là minh của quang minh. Chỗ này rất rõ ràng nói với chúng ta, bạn phải cùng với một người có tu, có chứng mà tu học, tìm được một vị thầy tốt như vậy mà thân cận với ông ấy thì bạn sẽ có thành tựu. Hiện tại người có tu, có chứng không tìm ra được, vậy thì phải làm sao? Có thể tìm được một người chân thật tu hành thì xem là không tệ rồi. Thế nhưng ở trong kinh Phật thường nói: “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”, chúng ta có thể gặp được thầy giáo tốt hay không, không ở duyên ngoài, vẫn là ở chính mình. Chính mình nếu như có tâm chân thành tu học, Phật Bồ Tát sẽ giúp đỡ, Phật Bồ Tát sẽ làm tăng thượng duyên cho chúng ta, bạn sẽ gặp được thầy giáo tốt. Nếu như tâm địa của chính bạn không chân thành, thì bạn không thể gặp được thầy giáo tốt, cho dù gặp được bạn cũng sẽ không tin tưởng, bạn cũng không tiếp nhận giáo huấn của ông ấy, gặp được cũng như không gặp được, cho nên quy kết đến sau cùng vẫn là chính mình.
Tôi học Phật, tôi cũng thường nói, tôi rất là may mắn, tôi không hề đi con đường oan uổng. Tôi chỉ thân cận hai vị thầy giáo. Vị thứ nhất là đại sư Chương Gia, tôi theo Ngài ba năm. Khi đại sư Ngài viên tịch rồi, về sau tôi quen biết với lão cư sĩ Lý Bĩnh Nam, tôi theo thầy 10 năm. Nếu chúng ta muốn có thành tựu chân thật thì nhất định phải hiểu được đạo lý này. Gần gũi một vị thầy, học một pháp môn, “một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”, bạn sẽ khai ngộ, công phu của bạn làm gì mà không có lực chứ? Chúng ta xem thấy một số người tu học, tại vì sao đã học mười mấy năm vẫn cứ công phu không có lực? Bạn tỉ mỉ mà quan sát, họ học được quá nhiều, học được quá tạp, quá loạn, ngay chính họ cũng không biết được nguyên nhân này do đâu. Thế nhưng loại cơ duyên thù thắng này, ở thời đại này rất khó mà gặp được, có thể tôi là người may mắn sau cùng, về sau có thể là không có. Tôi không thể nào dùng phương pháp của lão sư Lý, dùng phương pháp của đại sư Chương Gia để tiếp dẫn đại chúng, người hiện đại không tin tưởng, vậy thì không còn cách nào.
Tôi sanh vào thời đại hoạn nạn, từ rất sớm đã rời xa cha mẹ, giáo dục học đường cũng chưa hoàn thành, cũng không có người nói với tôi. Tôi thân cận những vị thiện tri thức này, thiện tri thức dạy bảo những điều này cho tôi, đưa ra những điều kiện cho tôi, tôi mơ mơ hồ hồ mà tiếp nhận. Tôi thân cận ba vị thầy giáo, có người ngầm nói, có người nói rõ ràng. Đó chính là nói với tôi, tôi chỉ có thể nghe lời dạy của một vị thầy, ngoài vị thầy ra, bất cứ vị pháp sư đại đức nào giảng kinh cũng không được phép nghe, đó là điều kiện thứ nhất. Điều kiện thứ hai là xem sách thì cho dù xem sách Phật hay sách thế gian, không được sự đồng ý của thầy thì không được phép xem. Bạn thấy điều kiện này hà khắc cỡ nào? Nếu ngày nay tôi dùng cái điều kiện này để tiếp dẫn đại chúng, thì mọi người đều bỏ chạy hết, mọi người nhất định sẽ quay đầu lại mắng vào tôi là ông có gì giỏi đâu mà cao lối, tự cao tự đại, xem thường người khác. Hiện tại dùng phương pháp này thì không có người nghe. Không có người nghe thì sư đạo đoạn tuyệt, thành tựu ngay trong một đời này của chúng ta là vô cùng khó khăn. Không dùng phương pháp này thì quyết định không thể thành tựu. Cho nên nếu bạn muốn thành tựu, nhất định phải học với một người.
Trên kinh Hoa Nghiêm, Phật đã đưa ra một mô phạm, dùng Thiện Tài Đồng Tử để đại biểu cho một người cầu pháp, làm học trò. Lão sư của Ngài là ai vậy? Là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chỉ chuyên nghe một người dạy. Ở dưới hội của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi được Tam muội, khai trí tuệ, được căn bản trí, vào lúc này thì có thể xuất sư, có thể rời khỏi lão sư, có thể tiếp xúc với đại chúng bên ngoài, bất cứ người nào cũng đều có thể tiếp xúc, bất cứ người nào giảng nói cũng đều có thể nghe, lão sư cho phép. Tại vì sao vậy? Nền tảng đã thành công rồi, bạn có năng lực phân biệt chân vọng, có năng lực phân biệt tà chánh, có năng lực phân biệt phải quấy, thiện ác, lợi hại. Bạn có loại năng lực này, có được trí tuệ này thì lão sư sẽ không hạn chế bạn, liền để cho bạn ra ngoài tham học. Thiện Tài thành tựu được bản lĩnh này ở dưới hội của Bồ Tát Văn Thù, sau đó mới có điều kiện ra ngoài tham học, đó là 53 lần tham học. Nếu như không có năng lực này thì không được rời khỏi lão sư nửa bước. Bạn có loại năng lực này, lão sư nhất định để cho bạn đi, sẽ không giữ bạn thêm một ngày, vì giữ bạn thêm một ngày là có lỗi với bạn. Bạn không có được năng lực này, bạn muốn ra ngoài tham học thì lão sư nhất định ngăn cản vì không ngăn cản là hại bạn. Ân đức của lão sư vượt hơn cha mẹ. Đạo lý này chúng ta phải hiểu, phải tường tận.
Hiện tại ở thời đại này thì phải làm sao? Sư đạo đã không còn! Cho nên chúng ta ngay ở trong lúc giảng dạy, trong quá trình giáo dục, tôi thường hay khuyên các đồng tu là chính mình phải nghĩ biện pháp. Hiện tại chúng ta không tìm được lão sư tốt thì chúng ta tìm người xưa, trong người xưa tìm lão sư vẫn được, cũng có thể thành công.
Ở Trung Quốc chúng ta, Mạnh Tử là người thứ nhất nương theo người xưa để tu học. Mạnh Tử là người rất thông minh, ông muốn học Khổng Lão Phu Tử. Khổng Lão Phu Tử đã qua đời rồi, nhưng trước tác của Ngài vẫn còn. Ông đọc sách của Khổng Tử, có chỗ nào không hiểu thì thưa hỏi với học trò của Ngài, nương Khổng Lão Phu Tử làm thầy, một lòng học Ngài. Ông cũng chân thật một môn thâm nhập trường kỳ huân tu, ông đã thành công. Cho nên người Trung Quốc gọi Khổng Tử là Chí Thánh Tiên Sư, gọi Mạnh tử là Á Thánh. Đây là trong lịch sư Trung Quốc, người thứ nhất được lấy làm lão sư, đã kiến lập cho chúng ta một tấm gương rất tốt. Về sau, ở Trung Quốc, lấy người xưa làm thầy có thành tựu huy hoàng như Tư Mã Thiên của nhà Hán. Nhắc đến việc này không ai không biết. Thầy của Tư Mã Thiên là ai? Tả Khưu Minh. Tả Khưu Minh cùng một thời đại với Khổng Lão Phu Tử, vậy chúng ta liền biết được ông đã học bằng cách nào. Trước tác của Tả Khưu Minh là Xuân Thu Tả Truyện, ông học Tả Truyện, đọc Tả Truyện, học được rất giống. Ông cũng thành tựu một bộ Sử Ký, trước tác vĩ đại, lịch sử Trung Quốc bộ đầu tiên là do ông viết. Lấy người xưa làm thầy còn có Hàn Dự, một trong tám đại gia Đường Tống. Thật cừ khôi. Đường Tống hai thời đại, tám nhà đại văn học được xếp hàng thứ nhất là Hàn Dự. Thầy của Hàn Dự là ai? Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên là người từ thời nhà Hán. Chúng ta biết được Hàn Dự đọc Lễ Ký, học Lễ Ký, học được rất giống, trở thành một nhà văn hào. Những thí dụ này đều là nói với chúng ta, học một bộ sách, học với một thầy thì bạn mới có thể có thành tựu. Không được học xen tạp, không được học lộn xộn.
Trong nhà Phật, rõ ràng nhất là đại sư Ngẫu Ích của tông Tịnh Độ chúng ta. Đại sư Ngẫu Ích là tổ sư đời thứ chín tông Tịnh Độ, thầy của Ngài là đại sư Liên Trì. Thế nhưng vào lúc đó đại sư Liên Trì đã vãng sanh rồi, nên Ngài đọc trước tác của đại sư Liên Trì, Ngài học được rất giống, học thành công. Đại sư Liên Trì là tổ thứ tám của Tịnh Độ, Ngài là tổ thứ chín của Tịnh Độ. Khi tôi ở Đài Trung học tập, lão sư Lý rất là khiêm tốn, thầy nói với tôi rằng: “Năng lực của tôi chỉ có thể dạy ông năm năm” và khuyên tôi học đại sư Ấn Quang, học người xưa, đọc “Văn Sao” của đại sư Ấn Quang, học pháp sư Ấn Quang. Pháp sư Ấn Quang là thầy của lão sư Lý. Đó là thầy khiêm nhường, thầy muốn tôi lấy thầy của thầy làm thầy, nhận thầy làm huynh trưởng, quan hệ của chúng tôi là bạn học, cái ý của thầy là vậy. Đây là hiển lộ đức hạnh của thầy.
Tôi ở khắp mọi nơi khuyên bảo các đồng tu, tôi cũng giới thiệu cho các vị một vị thầy tốt, còn thù thắng hơn pháp sư Ấn Quang, vị nào vậy? Vô Lượng Thọ Phật, A Di Đà Phật là thầy giáo tốt của chúng ta. A Di Đà Phật ở đâu vậy? Hiện tại kinh Vô Lượng Thọ bày ra ngay trước mắt của bạn, bạn có thể cả đời y theo một bộ kinh này mà tu học thì bạn chính là học trò của A Di Đà Phật. Không chỉ nghiệp chướng một đời này của bạn được tiêu trừ, mà chủng tử nghiệp tập từ vô lượng kiếp đến nay hàm chứa trong A Lại Da Thức thảy đều có thể tiêu trừ, bạn ở ngay trong một đời này quyết định được sanh Tịnh Độ. Khi bạn vừa phát tâm, mười phương tất cả chư Phật Như Lai tán thán bạn, tôn trọng bạn, bạn là đệ tử Di Đà. Cho nên, các vị đồng tu nhất định phải biết trân trọng cái cơ duyên hy hữu khó gặp này. Chúng ta lạy lão sư, còn có vị lão sư nào tốt hơn vị lão sư này chứ? Trong kinh Thế Tôn tán thán đối với lão sư này là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, tán thán đến cùng tột. Phải biết tán thán của Thế Tôn chính là đại biểu mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai tán thán đối với A Di Đà Phật, chúng ta còn không chịu tin tưởng hay sao? Còn có do dự gì chứ, còn có gì để hoài nghi nữa? Nếu như bạn không thể y giáo phụng hành, bạn vẫn là giả bộ như phục tùng thì tội nghiệp của bạn tạo sẽ cực sâu, không thể tha thứ. Tại vì sao vậy? Biết rõ mà cố phạm thì tội thêm một bậc. Bạn chưa tiếp xúc qua pháp môn này, chưa hề nghe qua kinh điển này, chưa hề đọc qua kinh điển này, bạn tạo tác tất cả tội nghiệp thì còn có thể tha thứ. Ngày ngày ở nơi đây nghe kinh, ngày ngày ở niệm Phật đường niệm Phật mà còn làm những việc mất mặt, tội nghiệp này của bạn cực trọng, cực lớn, đọa vào địa ngục, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng không cứu được bạn. Đây là thật, không phải là giả. Phải mau hồi đầu, việc này nhà Phật thường nói quay đầu là bờ. Chỉ cần bạn chịu quay đầu thì bạn liền được cứu, không chịu quay đầu thì bạn hết cứu rồi. Chỗ này nói, ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, khởi tâm động niệm phải đúng pháp, phải tương ưng với lời giáo huấn trong kinh điển này của Phật. Cũng như đại sư Thiện Đạo đã nói, kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta nên làm thì chúng ta chăm chỉ nỗ lực mà làm, dạy chúng ta không nên làm thì không chỉ chúng ta không nên làm, mà ý niệm cũng không được khởi lên. Trong bộ kinh điển này đầy đủ ba học giới định huệ, ngày ngày phải đọc tụng, ngày ngày phải phản tỉnh, ngày ngày phải cải đổi, đó gọi là chân niệm Phật.
Làm thế nào tương ưng với định học? Định là tâm thanh tịnh, là tâm bình đẳng, ở ngay trong cuộc sống thường ngày, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, chính mình phải có thể giữ chặt lấy. Trên kinh Kim Cang, Phật dạy chúng ta: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”, đó chính là định. “Bất thủ ư tướng” là không chấp tướng, không phải dạy chúng ta lìa bỏ những sự tướng này, vậy thì bạn sai rồi. “Không chấp” là gì vậy? Trong lòng không có phân biệt chấp trước, đặc biệt là trong tâm không chấp trước, tâm của bạn liền thanh tịnh. Tâm không chấp trước thì sẽ không bị ô nhiễm, tâm địa của bạn thanh tịnh sáng suốt, đó là định học. Có thể nói rõ ràng hơn một chút là nhất định không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc, không bị cảnh giới bên ngoài dao động, đó gọi là định. Lấy đời sống thường ngày mà nói, chúng ta giữ lấy đời sống đơn giản chất trực, không bị hào hoa xa xỉ bên ngoài mê hoặc. Không phải chúng ta thoát ly với xã hội này, chúng ta cũng thấy cũng nghe, thế nhưng quyết định không bị mê hoặc. Mỗi ngày chúng ta trà thô cơm đạm, ngày tháng trải qua rất tốt, qua được rất thoải mái, đời sống rất đơn giản, mong cầu rất ít, chân thật làm đến được không cầu người, bạn nói xem, tự tại dường nào! Quyết định không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc.
Thế gian cám dỗ, mê hoặc người quá nhiều. Trong đồ dùng thường ngày, điện khí dùng trong gia đình các vị mỗi ngày mỗi mới, một hai tháng thì mẫu mã mới xuất hiện, bạn vừa thấy thì động tâm, nhà kia có rồi mà mình chưa có, ta không bằng người, phải mau đi mua cho bằng được. Chính mình vốn dĩ có rồi, cái cũ thì vẫn chưa dùng hư, vì sĩ diện phải mau đi đổi, thì bạn đã bị những xí nghiệp đó, bị những người thiết kế đó lừa rồi. Ma ở đâu vậy? Những người đó đều là Ma vương, bạn không thể trốn được ma chưởng của họ, khổ sở mà đi phục vụ cho những Ma vương này, vì họ mà làm việc. Bạn nói xem, bạn đáng thương cỡ nào! Phục trang, thầy thiết kế cũng là Ma. Thiết kế ra một kiểu dáng mới, cái năm trước đã lạc hậu rồi, không thời trang nữa, bạn liền e ngại không dám mặc, phải mau đi mua mẫu mới, nói cũ rồi mặc vào bị người ta cười. Tôi thường nói, bị người ta cười có quan hệ gì? Cười chết là họ chết, không phải ta chết! Cho nên bạn phải thông minh một chút, một bộ quần áo có thể mặc được mười năm không thể hư. Bạn nói xem, bạn trải qua ngày tháng có khoẻ không? Điện khí gia dụng trong nhà bạn cố gắng bảo dưỡng, tôi nghĩ có thể dùng được mười năm. Mọi người đều dùng cái tư tưởng này của tôi trải qua ngày tháng thì những Ma vương đó đành phải bó tay, họ không thể mê hoặc người nữa. Cho nên chúng ta phải có trí tuệ, phải có định lực, quyết định không bị họ dao động. Chúng ta trải qua ngày tháng của chính chúng ta, trải qua đời sống hạnh phúc mỹ mãn của chính chúng ta, không bị người ta lừa gạt. Việc này phải dựa vào sức định, tương ưng với định.
Làm thế nào tương ưng với “Huệ”? “Huệ” là đối với tất cả pháp thế xuất thế gian rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, đó là trí tuệ. Không thể nói người ta hỏi thứ gì cũng đều không biết, vậy thì không được. Mọi thứ đều thông đạt, mọi thứ đều tường tận, mọi thứ không chấp trước, đây mới là trí tuệ chân thật. Người giác ngộ, người học Phật, sống ở ngay trong giới định huệ, đời sống của họ chính là ba học giới định huệ. Nếu ngược lại, chúng sanh rất đáng thương, chúng sanh sống ở ngay trong phiền não tham-sân-si, cho nên Phật gọi là kẻ đáng thương. Bồ Tát có thể đem san tham chuyển biến thành giới học, có thể đem sân hận chuyển biến thành định học, có thể đem ngu si chuyển biến thành huệ học, chuyển biến chỉ ở ngay một niệm. Cho nên là chúng sanh hay Phật chính là chỉ ở ngay một niệm. Bạn một niệm chuyển đổi lại thì chúng sanh thành Phật, một niệm mê hoặc thì Phật đọa chúng sanh, Phật liền biến thành chúng sanh. Phật cùng chúng sanh khác biệt chỗ nào vậy? Chỉ ở một niệm. Phật Bồ Tát khổ tâm giáo huấn đối với chúng ta, cũng không ngoài dạy chúng ta giác ngộ. Giác ngộ rồi chính là Phật Bồ Tát, mê rồi chính là phàm phu.
Định huệ sâu rộng vô tận, chúng ta quyết định không thể được ít cho là đủ, có được chút định nhỏ, có được chút công phu liền tự cho là đầy đủ, vậy thì sai lầm rồi. Không ngừng đem cảnh giới của chính mình nâng lên cao, mỗi ngày phải chăm chỉ nỗ lực dụng công. Mỗi giờ mỗi phút, mỗi nơi mỗi chốn, tất cả người, tất cả việc, tất cả vật đều là nơi chốn chúng ta học tập, đều là nơi chúng ta dụng công.
Phía trước tôi từng nói qua về đạo tràng với các vị đồng tu, đó là trên kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Duy Ma đã nói về đạo tràng, chúng ta phải có thể thể hội được cái tầng ý nghĩa này, sau đó mới có thể thành tựu Minh Hạnh Túc. Túc là đạt đến viên mãn, cứu cánh viên mãn. Vậy thì ý nghĩa câu này, thực tế mà nói là sâu rộng vô tận. Bởi vì vấn đề thời gian, chúng ta cũng chỉ có thể đơn giản giới thiệu qua với các vị đến chỗ này.
Đức hiệu thứ năm, Thiện Thệ
“Thiện” là ý nghĩa tốt đẹp, thiện hảo; “Thệ” là ý nghĩa đi qua, nếu như danh từ này đơn giản mà nói là “dễ đi”. Câu nói này rất đơn giản, dường như cũng rất dễ dàng hiểu. Dễ đi, bạn đi đến nơi nào vậy? Thô thiển mà nói, con người đều phải chết, có người nào mà không chết, chúng ta không nên sợ chết. Ngày trước có người nói với tôi là sanh tử đại sự. Tôi nói với họ, việc sanh tử không lớn, không có gì đáng ngại. Họ nghe rồi cũng rất kinh ngạc. Tôi nói với họ: “Tử sanh mới là việc lớn”. Họ cũng ngẩn ra, chết là sao? Sau khi chết rồi đi về đâu, việc này mới là việc lớn. Sau khi chết rồi, trong Phật pháp nói với chúng ta, trước mặt chúng ta bày ra mười con đường, mười pháp giới, bạn đi đến một pháp giới nào? Cái chọn lựa này là việc lớn. Thế nhưng các vị phải nên biết, không phải lúc bạn lâm chung mới chọn lựa, lúc lâm chung thì không còn kịp nữa, hiện tại bạn phải mau giác ngộ, hiện tại bạn phải biết chọn lựa. Đặc biệt là chúng ta sống trong thời đại này, thời đại này trong Phật kinh gọi là “đời ác năm trược”, hơn nữa còn trược ác đến cùng tột, có thể không cảnh giác sao? Nếu còn mê muội không cảnh giác, vậy thì thật đáng lo. Sau khi chết rồi, rất ít người không đọa vào ba đường, bạn nói xem sự việc này có to lớn không?
Trên thế gian này, rất nhiều quốc gia, thậm chí còn rất nhiều lời tiên đoán cổ xưa từ những khu vực, bao gồm Trung Quốc chúng ta cũng có rất nhiều lời tiên đoán về tai nạn của thế gian này, đặc biệt là Ki Tô giáo, Ki Tô giáo nói 1999 là ngày tàn của thế giới (năm 1999 là năm tới rồi), Thượng Đế phải tính hết sổ với người thế gian này, phán xét sau cùng. Chúng ta nghe những lời nói này không tin tưởng, không cho rằng đó là thật. Nếu như là thật thì phải làm sao? Đương nhiên có rất ít người tin sự việc này là thật, số người cực ít, đại đa số là không tin. Không những không tin đối với lời tiên đoán này, ngay đến Thượng Đế cũng không tin. Thế nhưng cổ thánh tiên hiền Trung Quốc chúng ta dạy bảo chúng ta quan sát xã hội, quan sát tư tưởng, kiến giải, hành vi của con người thì bạn liền có thể biết được thế gian này trị hay loạn. Nếu như lòng người thế gian này hướng thiện, đó là trị thế, thiên hạ thái bình. Nếu như lòng người hiểm ác, đều tạo tham-sân-si, đều tạo ra mười ác nghiệp, vậy thì nhất định có rất nhiều tai nạn lớn. Chúng ta xem qua xã hội hiện tại, trong hai mươi mấy năm qua, tôi thường hay qua lại rất nhiều quốc gia khu vực trên thế giới, tôi đã nhìn thấy được năm nghịch mười ác mỗi năm thêm nhiều, không chỉ không giảm nhẹ mà ngay đến tạm dừng cũng không thấy, năm sau tăng hơn năm trước, vậy có gì đáng lo bằng? Cho nên chết chúng ta không sợ, đặc biệt là người học Phật, người học Phật quyết không sợ chết. Sau khi chết rồi đi đến nơi đâu? Đây là vấn đề quan trọng nhất ngay trước mắt chúng ta. Thời gian người sống ở thế gian này rất ngắn. Tôi nghĩ lại lúc tôi còn trẻ, những việc lúc tôi sáu – bảy tuổi tôi đều nhớ được rất rõ ràng. Tôi sanh ra ở nông thôn, nghĩ tình hình vào lúc đó cũng giống như là việc của ngày hôm qua. Một trăm năm như khảy móng tay, tôi có thể thể hội, tôi có cảm giác này.
Chúng ta ở ngay trong cuộc sống này, thật giống như trong kinh đã nói là “nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên”. Được thân người, nghe Phật pháp, nhất là ngay trong lúc nghe Phật pháp thù thắng thứ nhất. Pháp môn Tịnh Độ thù thắng không gì bằng, pháp môn này vạn người tu vạn người vãng sanh, một chút cũng không giả. Nếu bạn có thể chân thật thành tựu, kinh điển không cần nói nhiều, bộ kinh Vô Lượng Thọ này không thể không thấu triệt, không thể không tường tận, sau đó y theo lý luận phương pháp cảnh giới trong kinh điển này mà tu hành, ngay trong đời này của bạn nhất định thành Phật. Đó mới gọi là Thiện Thệ. Thiện Thệ là đi thành Phật. Nếu như bạn không thể thành Phật, vậy thì không được xem là Thiện Thệ. Đây là từ trên sự mà nói.
Lại từ trên lý mà nói, xin nói với các vị, “Thệ” chính là vô trụ, “Thiện” chính là sanh tâm. Chúng ta dùng hai câu nói trên kinh Kim Cang để nói là “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” cũng là ý nghĩa của Thiện Thệ. Vô trụ, tại vì sao dạy bạn vô trụ? Bởi vì tất cả pháp đều không phải là chân thật, tâm của bạn phải trụ vào trong pháp thì sai rồi. Tâm có thể cũng là giả. Kinh Kim Cang nói với chúng ta, tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được, làm sao bạn có thể trụ cái tâm đó? Không thể được. Thế xuất thế gian tất cả pháp đều là do duyên sanh, phàm hễ do nhân duyên sanh thì đều không có tự thể, cho nên Phật nói: “Ngay thể là không thì không thể có được”. Phật sợ chúng ta thể hội không được ý nghĩa này, còn đặc biệt nêu ra thí dụ nói với chúng ta là “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Đây là thật, không phải là giả.
Hiện tại khoa học kỹ thuật phát triển, máy chụp hình rất tiện lợi, gần như mỗi một người đều có máy chụp hình. Nếu bạn muốn hỏi, bạn có máy chụp hình hay không? Đại đa số mọi người đều có. Các vị chơi máy chụp hình có ngộ ra gì không? Các vị chơi máy chụp hình chụp lấy tướng, ấn xuống thì chẳng phải là dính tướng rồi hay sao? Tôi cũng biết chụp hình, kinh nghiệm chụp hình của tôi rất phong phú, đã chụp mấy mươi năm. Tôi không giống như các vị, khi tôi ấn xuống đóng mở ống kính máy, tôi liền biết được đó chính là sanh diệt. Hiện tượng của sanh diệt chỉ là một sát na, một sát na đó đi qua, vĩnh viễn sẽ không có cái sát na đó nữa, sát na đó không giống như sát na trước, cho nên cảm thọ của tôi hoàn toàn khác với các vị. Đây chính là trên kinh Kim Cang đã nói: “Như lộ diệc như điện”. Điện là ánh chớp. Kinh Hoa Nghiêm đã nói “Sát Na tế”, đó chính là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Trong hiện tượng này chúng ta có thể thể hội được, nói rõ cái gì? Nói rõ chân tướng sự thật không tồn tại, cho nên Phật gọi nó là “mộng huyễn bào ảnh”, một chút cũng không sai. Đây là nói rõ tất cả các pháp bất khả đắc, “vạn pháp giai không”. Cái tâm năng đắc bất khả đắc, cái pháp bạn có được cũng không thể được, tâm của bạn làm sao có thể trụ được chỗ nào?
Cái trụ này chính là ý nghĩa của sự vướng bận, trong tâm của bạn có nhớ nghĩ. Bạn phải biết đó là giả, không phải là thật. Cho nên Phật nói ra chân tướng này, dạy chúng ta “không nên có chỗ trụ”. Khi nào không có chỗ trụ thì chân tâm liền hiện tiền. Chỉ cần bạn có chỗ trụ thì cái tâm trụ đó chính là vọng tâm, không phải chân tâm. Cách nói này của tôi các vị có thể nghe hiểu không? Nếu như các vị còn nghe không hiểu, tôi sẽ nói rõ với các vị hơn một chút. Mỗi ngày trong lòng các vị vướng bận, niệm niệm đều không thể quên đi, thì chính là tâm của bạn có chỗ trụ. Người mà các vị nghĩ tưởng đến, người già luôn nghĩ đến con cháu, cái tâm đó của các vị dính ở nơi con cháu. Người trẻ một ngày từ sớm đến tối nghĩ đến tiền, tâm của các vị dính chặt vào tiền. Thật đáng thương! Không biết được năng trụ sở trụ đều là một mảng không. Bạn xem, bạn ngày ngày bận rộn là gì? Sau khi giác ngộ rồi thì không còn, không để ở trong lòng, sự thì có hay không? Sự thì có, tuyệt đối không thể nói bạn chứng được vô trụ rồi thì bạn không còn quan tâm đến con cháu nữa, không còn quản chúng nữa, vậy thì bạn hoàn toàn sai lầm. Vẫn là thương chúng, vẫn là quan tâm chúng, vẫn là chăm lo chúng mà không để trong lòng. Trong lòng thanh tịnh bình đẳng, vậy thì đúng. Đó gọi là gì vậy? “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”, không có chướng ngại. Nếu như tâm của bạn có trụ thì có chướng ngại, tâm vô trụ thì không có chướng ngại. Cho nên kinh Hoa Nghiêm là pháp giới không chướng ngại. Pháp giới không chướng ngại gọi là pháp giới nhất chân. Mười pháp giới là có chướng ngại, pháp giới nhất chân không chướng ngại. Đây là ý nghĩa của “Thệ”.
“Thiện” là sanh tâm. Vô trụ cùng sanh tâm là một sự việc, không phải là hai việc. Sanh tâm gì vậy? Sanh tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi. Cái tâm này sanh, tự thọ dụng chính là chứng được báo thân Phật, Phật thân báo thân; tha thọ dụng chính là tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, đó gọi là sanh tâm. Tuy sanh tâm nhưng họ tương ưng với vô trụ, tuy vô trụ mà họ tương ưng với sanh tâm, cho nên vô trụ cùng sanh tâm là một sự việc, không phải là hai sự việc. Đây chính là Phật Bồ Tát. Phàm phu chúng ta là như thế nào vậy? Phàm phu sanh tâm có trụ, sanh tâm thì trụ. Không giống như Phật Bồ Tát, Phật Bồ Tát sanh tâm vô trụ, phàm phu sanh tâm có trụ. Khi vừa có trụ, sanh tâm liền không tốt, thì không phải là thiện. Sanh ra cái tâm gì vậy? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Phật Bồ Tát sanh ra cái tâm là tâm giới định huệ, phàm phu sanh tâm là phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Then chốt chính là một cái có trụ, một cái không có trụ. Tâm không trụ là chân tâm, chân tâm khởi dụng; có trụ là vọng tâm. Vọng tâm biến ra sáu cõi luân hồi, chân tâm biến pháp giới nhất chân, thọ dụng hoàn toàn không tương ưng. Nếu bạn hiểu được rõ ràng đạo lý này rồi, bạn ở ngay trong cuộc sống thường ngày liền được tự tại.
Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta có thể thọ dụng, không nên chiếm hữu, không nên chấp trước, bạn có thể thọ dụng, vậy bạn chính là Thiện Thệ. Nếu như bạn ở ngay trong thọ dụng, bạn còn có thể lợi ích tất cả chúng sanh thì bạn là Bồ Tát. Chính mình chỉ có thọ dụng mà không hề chấp trước, cũng không tích cực đi giúp đỡ tất cả chúng sanh thì là Tiểu thừa La Hán, Bích Chi Phật. Đại thừa hay Tiểu thừa, giới hạn chính ngay chỗ này. Phật Bồ Tát xả mình vì người. Việc xả mình vì người là chúng ta nói, trên thực tế, ở trong cảnh giới đó của các Ngài, các Ngài không có cái ý niệm ta và người thì làm gì có xả mình vì người gì đó. Vậy thì đây cũng là trên kinh Kim Cang Phật đã nói: “Bồ Tát lìa ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tu tất cả thiện pháp”, vẫn là vô trụ sanh tâm. Lìa ngã tướng, lìa nhân tướng, lìa chúng sanh tướng, lìa thọ giả tướng, thảy đều lìa khỏi hết thì chính là vô trụ; tu tất cả thiện pháp chính là sanh tâm. Vậy phàm phu chúng ta tu tất cả thiện pháp có ngã, có nhân, có chúng sanh, có thọ giả, vậy thì có trụ. Bạn đem những thứ này làm cho rõ ràng, làm cho tường tận rồi, sau đó bạn liền biết được làm thế nào học Phật.
Muốn học Phật thì phải “vô trụ sanh tâm”, người học Phật “lìa bốn tướng, tu tất cả thiện pháp”, đó mới gọi là tích công bồi đức, vô lượng công đức. Nếu như không thể lìa bốn tướng tu tất cả thiện pháp, đó là phước báo hữu lậu thế gian, bạn tu phước không phải là tu công đức, tu công đức nhất định phải lìa bốn tướng. Sự việc này rất khó. Tôi cảm thấy tôi đã giảng được rất rõ ràng, nhưng xem thấy biểu hiện của các vị dường như chưa nghe được tường tận. Thực tế là rất khó hiểu, rất không dễ dàng thể hội, thế nhưng nếu không hiểu cho tường tận, hiểu cho thông suốt thì chúng ta không cách gì thực tiễn ngay trong đời sống. Không thể thực tiễn ngay trong đời sống thì kinh này của chúng ta đã giảng uổng công, tại sao vậy? Không có được thọ dụng. Then chốt là chúng ta phải đem từng câu từng chữ biến thành đời sống thực tế của chính mình, thì Phật pháp mới trở thành có hữu dụng, học rồi thật có ích, chân thật có chỗ tốt, chân thật có lợi ích. Cái điểm này rất quan trọng. Cho nên chúng ta quyết không chú trọng đàm huyền nói diệu, vậy thì không ý nghĩa gì. Chúng ta phải làm thế nào học tập? Thiện Thệ. Phương pháp tu học đơn giản nhất chính là niệm niệm không nên nghĩ chính mình, mà niệm niệm vì chúng sanh. Hiện tại chúng sanh khổ, làm thế nào giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn này?
Giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, các vị nhất định phải nên biết, không phải nói chúng sanh không có ăn thì chúng ta vội vàng đưa chút đồ ăn đến cho họ ăn, chúng sanh không có đồ mặc thì vội vàng đưa quần áo đến cho họ mặc, đây là thông thường trong xã hội gọi là từ thiện cứu tế. Loại cứu tế này có giải quyết được vấn đề hay không? Không thể giải quyết được vấn đề.
Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời có làm qua việc này không? Không hề làm qua. Chúng ta không hề xem thấy trong kinh điển là Thích Ca Mâu Ni Phật vào lúc nào đó đi cứu tế. Vì sao không hề xem thấy? Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi ngày chỉ xin một bát cơm, chính mình ăn vừa đủ, làm gì có dư để cho người? Có thể thấy được Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời không làm qua những việc này, thế nhưng Ngài có làm sự nghiệp từ thiện cứu tế hay không? Ngài làm, Ngài làm được viên mãn, làm được triệt để, làm được cứu cánh. Giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, đó mới chân thật cứu tế. Ngài xem thấy người khổ nạn, người không có cơm ăn, không có quần áo mặc, Ngài nói với họ là họ vì sao mà không có cơm ăn, anh vì sao mà không có quần áo mặc, anh tại vì sao mà bị tai nạn, Ngài đem đạo lý giảng cho họ nghe rõ ràng, nói cho họ nghe tường tận nhân trước, quả sau. Họ chính mình giác ngộ rồi, họ chính mình quay đầu, vừa quay đầu thì họ được phước báo, đó là chân thật cứu tế, đó là từ bi cứu giúp chân thật. Mọi người không hiểu. Chúng ta học Phật đối với tầng đạo lý chân tướng sự thật này không thể nào xem thường, nhất định phải tỉ mỉ thể hội. Cho nên, Phật cứu chúng sanh là giúp chúng sanh phá mê khai ngộ.
Phật nói với chúng ta, khổ nạn của chúng sanh từ do đâu mà có? Do mê mà có. Bởi vì bạn mê hoặc bạn mới tạo ác nghiệp, bạn tạo ác nghiệp bạn mới thọ ác báo, nguyên nhân căn bản ở mê hoặc. Tất cả phước đức an lạc từ do đâu mà có? Từ giác ngộ mà có, cho nên Phật cứu hộ đối với tất cả chúng sanh là từ nơi căn bản mà làm. Bạn giác ngộ rồi, bạn muốn có bất cứ phước báo gì đều không khó. Bạn biết rõ lý luận, hiểu được phương pháp, y theo phương pháp mà tu học thì nhân thiện được quả thiện, chỉ cần bạn chịu làm. Một phần cày bừa tự nhiên có một phần thu hoạch, nhân duyên quả báo không sót mảy trần. Nhờ người khác cứu giúp không phải là biện pháp, không thể giải quyết vấn đề. Nhờ người khác bố thí cúng dường, tương lai về sau còn phải trả nợ, làm gì có chuyện ăn không.
Người xuất gia tiếp nhận cúng dường của bốn chúng đồng tu, trong Phật pháp thường nói:
Một hạt gạo của thí chủ
Nặng như núi Tu Di
Đời nay không liễu đạo
Mang lông đội sừng để trả.
Vẫn là phải đền trả, cơm này không dễ ăn, vẫn là chính mình cày bừa thì tương đối thuận tiện. Nghiệp nhân quả báo trong đây sâu rộng vô ngần, tình huống sự thật rộng lớn vô biên, nếu như không phải Phật nói cho chúng ta nghe thì ngay trong một đời này của chúng ta nhất định không nghĩ ra được. Cho nên ân đức của Phật đối với chúng ta, cha mẹ cũng không thể sánh được với Phật. Ân đức của cha mẹ một đời một kiếp, sinh mạng của chúng ta có được là nhờ cha mẹ, ân đức của Phật đời đời kiếp kiếp, vĩnh viễn không có bờ mé. Ai biết được? Người giác ngộ biết được, cho nên tri ân báo ân.
Làm thế nào báo ân Phật?
Chỉ có y giáo phụng hành, đó mới là chân thật báo ân Phật. Có thể tin, có thể hiểu, có thể hành, có thể chứng đối với kinh điển. Cái gì gọi là chứng? Đem đạo lý phương pháp mà Phật đã nói trong kinh điển hoàn toàn ứng dụng ngay trong đời sống chính là chứng quả, bạn ở ngay trong đời sống đạt được chứng minh. Thí dụ Phật nói với chúng ta, bố thí tài được tiền của, bạn hiểu rõ được đạo lý này, biết được phương pháp này, bạn tu bố thí tài quả nhiên phát tài được tiền của, đó gọi là chứng. Nếu bạn không phát được tài thì bạn chưa chứng. Bố thí pháp được thông minh trí tuệ, bố thí vô uý được khoẻ mạnh sống lâu. Có lý luận, có phương pháp, có chân tướng sự thật, chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày đích thực là có thể đạt được, đó gọi là chứng. Các pháp Phật nói ra là vô lượng vô biên, mỗi thứ chúng ta đều đem nó chứng thực, đều đem nó chứng minh, đó gọi là chứng quả. Thế nên Phật nói với chúng ta đều là nói ra những cương lĩnh, nguyên lý, nguyên tắc, chúng ta phải sâu sắc mà thể hội, đem những nguyên lý nguyên tắc này ứng dụng ngay trong cuộc sống, ứng dụng ở trong công việc, ứng dụng ở trong đối nhân xử thế tiếp vật, không có pháp nào không tương ưng, không có việc nào không tương ưng, thì bạn hoàn toàn sống ngay trong Phật pháp.
Phật pháp là giác pháp, sống ở trong giác ngộ, cũng sống ở trong trí tuệ viên mãn, đó gọi là học Phật, đó gọi là tu hành chứng quả. Tu hành chứng quả chính là việc như vậy thôi. Ở trong đây quyết không phải là hư huyền, quyết không luống không, quyết không phải là cao không với tới, sâu không thể dò được. Đều là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nói rõ đều là việc thường ngày trong nhà, làm gì có chút nào kỳ lạ đâu?
Đức hiệu thứ sáu, Thế Gian Giải
“Thế” vốn dĩ là nói thời gian. Trung Quốc thời xưa 30 năm gọi một đời, cho nên cái thế này có ba cái mười, biểu thị cái ý này, đó là nói thời gian.
“Gian” là nói không gian, có lúc cũng gọi là thế giới. Giới là giới hạn, giống ý nghĩa của gian. Ngay chỗ này nói thế gian không chỉ là chỉ “hữu tình thế gian” chúng ta, thông thường là chỉ trong sáu cõi, loại chúng sanh có tình thức, dùng lời hiện đại mà nói chính là động vật. Loại thứ hai gọi là “khí thế gian”. Khí thế gian là thực vật, khoáng vật, cho đến vô số hiện tượng của đại tự nhiên là hoàn cảnh đời sống của chúng ta. Loại thứ ba là “trí chánh giác thế gian”, trí tuệ, chánh giác thế gian, thông thường chỉ Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, đều bao gồm trong loại này.
“Giải” là ý nghĩa thông suốt. Hay nói cách khác, đối với cả thảy vũ trụ nhân sanh, họ đều có thể thông đạt tường tận thì mới có được đức hiệu này, cũng là toàn tri toàn năng mà thông thường trong các tôn giáo nói, không gì không biết, không gì không thể. Khoa học gia cận đại, phương hướng nghiên cứu của họ đi đến hai cực. Một loại là cực lớn, vô cùng lớn, nghiên cứu thái không vật lý. Một loại nghiên cứu vô cùng nhỏ, gọi là lượng tử lực tử, nghiên cứu nguyên tử, điện tử, hạt tử. Đó là khoa học kỹ thuật hướng đến hai cực để phát triển. Phật tường tận đối với tất cả, không thứ nào không tường tận. Trên thực tế, cái mà nhà khoa học biết là rất có hạn.
Chúng ta đọc được ở trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài Đồng tử vào trong lổ chân lông của Bồ Tát Phổ Hiền, lổ chân lông là rất nhỏ (kỳ thật, lổ chân lông của Bồ Tát Phổ Hiền cùng lổ chân lông của chúng ta không hề khác nhau, việc này cần phải nên biết), ở trong đó quan sát được vô lượng vô biên công đức tạng. Các vị phải nên biết, Bồ Tát như vậy, chúng sanh cũng là như vậy, chúng ta cũng là như vậy. Cảnh giới này nhà khoa học không cách gì chứng đắc, họ chỉ có thể xem thấy biểu thị bên ngoài cực kỳ vi tế của hạt tử, họ không thể hiểu rõ nội hàm của nó. Cho nên không luận từ phương diện lớn hay từ phương diện nhỏ mà nghiên cứu, nếu như chúng ta dùng lời nói của Âu Dương Cảnh Vô để nói, đều không đạt được kết quả chân thật.
Có thể thấy được trí tuệ viên mãn, đức năng chân thật là trong tự tánh chúng ta vốn dĩ đầy đủ. Hay nói cách khác, chúng ta vốn dĩ không gì không biết, không gì không thể. Hiện tại vì sao thành ra đáng thương như thế này? Biến thành không biết thứ gì, không thể được thứ gì, hơn nữa vẫn còn không biết hổ thẹn. Đại sư Hoằng Nhất đã từng nói qua hai câu nói hổ thẹn, đó là đến lúc cuối đời làm một tổng kiểm thảo, tổng phản tỉnh ngay trong một đời này. Ngài nói: “Nhất sự vô thành, nhân tiệm lão”, ngay trong một đời này, chưa thành tựu được một việc nào thì người đã già rồi. Ngài lại nói một câu: “Nhất văn bất trực, hà tiêu thuyết”, đó là phê bình giá trị ngay trong một đời của chính mình không đáng một xu, còn có gì để đáng nói. Hàm nghĩa của hai câu này rất sâu. Chúng ta từ cạn mà nhìn, là đại sư Ngài phản tỉnh giác ngộ, cũng là nhắc nhở chúng ta cảnh giác. Từ chỗ sâu mà nói, thực tế là cùng tương ưng với lý nhị không. Trên kinh Bát Nhã nói với chúng ta là “Tam tâm bất khả đắc, chư pháp vô sở hữu”. Chúng ta tỉ mỉ từ chỗ sâu mà thể hội mới có thể có chút thể hội ý cảnh của lão pháp sư.
Hiểu rõ chân tướng sự thật này, chúng ta cần phải nỗ lực phản tỉnh, tỉ mỉ mà suy ngẫm. Chúng ta ở ngay trong một đời này, ngày tháng này phải nên làm thế nào để đột phá, làm thể nào để vượt qua, làm thế nào qua được có ý nghĩa có giá trị? Ở trên kinh Phật thường hay khuyên chúng ta tích công bồi đức, đó là người giác ngộ, sống có ý nghĩa, có giá trị. Ở ngay trong cảnh giới bất khả đắc vô sở hữu có thể tích lũy công đức, cũng có thể tích lũy tội nghiệp. Một niệm giác thì bạn tích lũy là công đức, một niệm mê thì bạn tích lũy tội nghiệp. Tích lũy công đức thì quả báo ở ba đường thiện, tích lũy tội nghiệp thì quả báo ở ba đường ác. Tuy nhiên, ba đường thiện cùng ba đường ác cũng là không vô sở hữu, cũng là liễu bất khả đắc, chẳng qua là tướng có, lý không. Cho nên, nếu bạn muốn hỏi, hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta là có hay là không? Nếu như bạn cho rằng có thì tất cả đều có, nếu bạn cho là không thì vạn pháp đều không. Thế nhưng bạn phải biết được chân tướng, không và có là một, không phải là hai, cho nên trên Tâm kinh đã nói là “sắc tức thị không, không tức thị sắc, sắc bất dị không, không bất dị sắc”, đây mới nói rõ chân tướng sự thật. Nếu như bạn tích lũy là tội nghiệp, bạn nhất định chịu khổ báo của ba đường. Cái khổ báo này cũng giống như trong giấc mộng vậy, giống như bạn nằm thấy ác mộng, như bạn đang chịu khổ não cực hình ở trong mộng, khiếp sợ cực lớn, bạn giật mình tỉnh giấc sợ đến toàn thân ướt đẩm mồ hôi. Thời gian này ngắn. Nếu như bạn phải đọa vào ba đường thì thời gian đó dài. Trên kinh Địa Tạng đã nói là “vô số kiếp”, bạn phải chịu dày vò của khổ nạn. Đó là do bạn một niệm bất thiện, bạn ở ngay trong đời sống thường ngày tích lũy tội nghiệp, người như vậy chính là kẻ đáng thương mà chúng ta thường đọc thấy trên kinh điển, Thế Tôn gọi người như vậy là kẻ đáng thương.
Còn người giác ngộ thì họ sẽ biết vận dụng cơ duyên, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, có thể đem cảnh giới của chính mình không ngừng nâng lên cao. Ở trên kinh Phật tán thán đối với họ, họ nhận quả báo thiện, hơn nữa quả báo này càng ngày càng thù thắng, càng ngày càng không thể nghĩ bàn, từ phước báo của trời người nâng lên đến mười pháp giới, nâng lên đến nhất chân pháp giới, nâng lên đến cùng chư Phật Bồ Tát không hề khác biệt.
Những việc này đều ở ngay khoảng một niệm hiện tiền, vấn đề là chính mình có biết hay không. Vậy chúng ta muốn hỏi, chúng ta thật tại không biết thì phải làm sao? Rất muốn học nhưng lại không biết thì phải làm sao? Chỉ cần bạn có một cái tâm chân thành, tâm khẩn thiết muốn cầu thì bạn liền có thể được độ. Đây chính là nhà Phật đã nói: “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”, bạn quyết định có thể được độ. Phải nên học bằng cách nào? Y giáo phụng hành, bạn liền có thể thành tựu. Y theo giáo huấn mà trên kinh điển Phật đã dạy, chăm chỉ nỗ lực mà làm thì liền có thể được quả báo thù thắng, dần dần liền sẽ tường tận đối với tất cả sự lý nhân quả thế gian. Việc này ở trong Phật pháp gọi là tiệm ngộ. Ngộ có tiệm ngộ, có đốn ngộ. Đốn ngộ khó, tiệm ngộ thì mỗi một người chúng ta đều có thể làm đến được, đó là giải hành có thể tương ưng. Giải giúp cho bạn hành, hành giúp cho bạn giải, mãi đến cứu cánh viên mãn. Viên mãn mới gọi là Thế Gian Giải.
Đức hiệu thứ bảy: Vô Thượng Sĩ.
“Sĩ” là người đi học, ở xã hội Trung Quốc thời xưa địa vị rất cao, được xã hội đại chúng tôn kính. Xã hội Trung Quốc thời xưa có Sĩ, Nông, Công, Thương khác biệt; ở Ấn Độ có Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá, Thủ Đà La. Thế nhưng Trung Quốc đối với quan niệm giai cấp không hề chấp trước sâu dày như Ấn Độ, cho nên khi Phật pháp Đại thừa đến Trung Quốc rất dễ dàng được người Trung Quốc tiếp nhận, người Trung Quốc có thể lý giải với mối quan hệ này. Nếu dùng lời hiện tại để nói, thượng sĩ chính là phần tử tri thức. Thích Ca Mâu Ni Phật và học trò của Ngài, có thể nói mỗi mỗi đều là có phẩm đức cao thượng, có học vấn chân thật, thế nhưng đời sống của họ rất đơn giản, đối với đời sống vật chất, đối với danh vọng lợi dưỡng của thế gian, các Ngài hoàn toàn xả bỏ hết, thực hành chế độ khất thực, ôm bát xin ăn. Các Ngài không phải là người ăn xin thông thường, các Ngài là người có học vấn, có đạo hạnh, cho nên gọi họ là “khất sĩ”. Trí tuệ cao nhất trong phần tử tri thức, đức hạnh rộng, không có người nào có thể siêu vượt hơn Phật Đà, cho nên chúng ta tôn xưng đối với Phật Đà là “Vô Thượng Sĩ”. Dùng lời hiện tại mà nói là phần tử tri thức không thể vượt qua được Ngài. Trong phần tử tri thức, Ngài là chí cao vô thượng. Phật Đà có vì vậy mà cảm thấy kiêu ngạo hay không? Không có! Tại vì sao không có? Phật thấy trí tuệ đức năng của tất cả chúng sanh không hề khác với Ngài. Ngài xưng là Vô Thượng Sĩ, thực tế mà nói, nếu từ nơi tự tánh mà nói thì tất cả chúng sanh có ai không phải là Vô Thượng Sĩ chứ? Đều là vậy.
Ngày nay đức hiệu này của chúng ta mất hết, chân thật bởi vì chúng ta có hai loại chướng ngại là phiền não chướng (phiền não chướng ngại giác tánh của chúng ta) và sở tri chướng. Đại Niết Bàn, Đại Bồ Đề vốn đủ trong tự tánh của chúng ta, nhưng bị hai loại này chướng ngại mất. Phật nói với chúng ta, hai loại chướng ngại này không phải là thật, mà là hư vọng, chỉ cần đem hai loại chướng ngại này buông bỏ thì trí tuệ đức năng trong tự tánh của chúng ta liền hiện tiền, thế là đức hiệu Vô Thượng Sĩ cũng tự nhiên liền đầy đủ. Những thứ này đều phải nhờ vào sự chăm chỉ nỗ lực đoạn phiền não ngay hiện tiền của chúng ta. Đoạn phiền não cũng chính là đoạn ác tu thiện. Mục đích của đoạn ác tu thiện là hồi phục tánh đức của tự tánh chúng ta. Mười hiệu trên quả địa Như Lai chính là tánh đức.
Đức hiệu thứ tám, Điều Ngự Trượng Phu
Trước tiên chúng ta xem hai chữ “trượng phu” này. Vào thời xưa Trung Quốc, hai chữ này cùng hai chữ anh hùng là tương đồng như nhau, đại trượng phu chính là đại anh hùng. Cho nên trượng phu ở chỗ này không có phân biệt nam nữ, cũng không có phân biệt già trẻ, là từ trên tánh đức mà nói. Người khác không làm được việc này, bạn có thể làm được, đó gọi là đại trượng phu. Trong kinh điển Phật cũng nói cho chúng ta nghe rất rõ ràng, quan trọng vẫn là phải thân cận minh sư, tu tích thiện pháp, thành tựu phẩm đức học vấn của chính mình.
Hai chữ “điều ngự” bên trên đây, thực tế nói điều ngự là nói hiệu quả. “Điều” là điều tâm. Trong tâm chúng ta vọng tưởng tạp niệm rất nhiều, làm thế nào có thể điều hòa? Đem vọng tưởng tạp niệm từ bỏ. “Ngự” là khống ngự, khống chế. Khống chế hành vi của chúng ta, không để thân khẩu tạo ác nghiệp, đó gọi là ngự. Cho nên điều tâm ngự hạnh, ở chỗ này nhà Phật gọi là chân thật tu hành. Nếu như bạn hiểu được nguyên lý này, công phu tu học của bạn đương nhiên có lực. Ngày nay công phu tu học của bạn không có lực là do bạn không biết được cách điều tâm, bạn không biết được khống chế hành vi của bạn, cho nên bạn không thể gọi là trượng phu. Một đại trượng phu có cái năng lực này.
Ngày nay xã hội này chúng ta có rất nhiều người gọi là xã hội đa nguyên văn hóa, đặc biệt là ở Úc Châu. Trong mấy năm gần đây, Úc châu rất chú trọng điều hòa đa nguyên văn hoá, nguyên nhân là do gần đây chính phủ Úc Châu chọn lấy chính sách mở rộng, hoan nghênh người nước ngoài di dân đến khu vực này của họ ở. Người mới di dân đến Úc châu, những người này đến từ những quốc khác nhau, chủng tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, hoàn cảnh đời sống khác nhau, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, hiện tại cư ngụ ở xã hội này, làm thế nào để những người này có thể ở trong sự khác nhau đó có thể điều hòa? Đây là một vấn đề trọng đại. Chỉ có điều hoà mới có thể phồn vinh xã hội, hy vọng người mới di dân đến cùng cư dân của họ có thể đạt đến được tôn trọng lẫn nhau, kính yếu lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, để sáng tạo xã hội tốt đẹp, đời sống mỹ mãn. Mục tiêu lý tưởng này vô cùng cao cả, rất được đại chúng xã hội hoan nghênh, cho nên họ thường hay tổ chức những buổi luận đàm này. Tôi nghe nói đầu tháng 12 còn có một buổi thảo luận đa nguyên văn hoá với quy mô lớn. Họ có yêu cầu chúng tôi tham gia. Trên thực tế, thế giới hiện tại, do vì giao thông thuận tiện, tin tức truyền nhanh, chúng ta tỉ mỉ mà nghĩ lại, có một quốc gia nào, một khu vực nào mà không có người nước ngoài đến? Đã có cư dân bên ngoài đến thì chẳng phải là hình thái của đa nguyên văn hoá hay sao? Người Úc Châu đem vấn đề này chính thức đưa ra công khai thảo luận, hy vọng đạt đến mục tiêu này. Kỳ thật, bất cứ một quốc gia khu vực nào, người lãnh đạo thông minh trí tuệ thì đều chú ý đến vấn đề này, cũng đều rất xem trọng vấn đề này. Dùng phương pháp gì để điều hoà? Loại phương pháp nào điều hoà có hiệu quả? Hiện tại mọi người đều đang thăm dò.
Tôi xem thấy hiện tượng này, tôi liền lập tức thể hội được, thế giới Tây Phương Cực Lạc càng là khu vực đời sống đa nguyên văn hóa quy mô lớn. Cư dân của thế giới Tây Phương là từ vô lượng vô biên các cõi Phật vãng sanh đến, cho nên muốn nói đến bối cảnh văn hóa khác nhau, cách biệt của tư tưởng hoàn cảnh đời sống, có thể nói là không thể nào so được sự phức tạp như thế giới Tây Phương Cực Lạc. Những người từ tận hư không khắp pháp giới đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, làm thế nào đem đa nguyên biến thành nhất nguyên? Đây là chúng ta thấy được bản lĩnh của Phật A Di Đà, trí tuệ của Phật A Di Đà đáng được chúng ta học tập. Ngày nay, chúng ta cảm thấy đau đầu với đa nguyên văn hoá, không thể giải quyết, chúng ta có nghĩ đến Tỳ Lô Giá Na Phật giải quyết như thế nào không? A Di Đà Phật làm sao để giải quyết hay không? Cho nên kinh Vô Lượng Thọ cùng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh chính là giáo trình đa nguyên văn hoá quan trọng nhất, không còn nghi ngờ gì nữa. Nếu bạn muốn giải quyết vấn đề này, học A Di Đà Phật, học Tỳ Lô Giá Na Như Lai thì vấn đề này mới có thể giải quyết được cứu cánh viên mãn. Cho nên Phật được gọi là “Điều Ngự Trượng Phu” thật đúng với tên, không hề quá đáng chút nào.
Ở trong pháp thế gian, không luận đoàn thể của ta lớn hay nhỏ, nhỏ chính là một gia đình, lớn chính là một quốc gia, thậm chí đến thế giới, thế giới hiện tại chúng ta vẫn chưa xem thấy, quốc gia chúng ta đã từng xem thấy, xưa nay trong và ngoài nước đều có mấy vị là người đầy đủ trí tuệ hiền đức cao độ, họ ở ngay trong quần chúng liền khởi lên tác dùng điều hòa, khiến cho đoàn thể này trên dưới có thể đoàn kết nhất trí, thế là họ mới có thể kiến công lập nghiệp. Nhỏ thì gia đình hưng vượng, lớn thì quốc gia giàu mạnh. Do đây có thể biết, người điều hòa đại chúng là nhân vật then chốt, rất là quan trọng. Chúng ta biết người này thì nhất định phải tôn trọng đối với họ, thành tâm thành ý thỉnh giáo với họ. Đạt được hiệp trợ của họ thì có thể thành tựu đại công, lập đại nghiệp.
Có thể điều ngự tận hư không khắp pháp giới, đó là chư Phật Bồ Tát. Vì sao Phật Bồ Tát có được bản lĩnh này? Các vị đọc kỹ kinh Hoa Nghiêm thì liền biết, nguyên tắc quan trọng nhất ở chỗ này là dùng chân thành đối với người, từ bi tiếp vật. Chân thành có thể cảm động tất cả mọi người. Tất cả chúng sanh cùng đồng một tự tánh, cùng đồng một Phật tánh, không ai mà không cảm động. Không thể cảm động là lòng chân thành của chính chúng ta không đủ. Nếu như chân thành đến cực điểm, tự nhiên liền có thể cảm động tất cả chúng sanh, cho dù chúng sanh phiền não tập khí có nặng hơn cũng sẽ bị cảm động, cũng ít nhiều đều có thể nhiếp hoá được. Như vậy thì đối với sự an định của xã hội, đối với hòa bình thế giới, đối với phước báo của chúng sanh, liền có được sự cống hiến. Loại cống hiến này chính là tích lũy công đức mà trong Phật pháp nói, dùng lời hiện tại mà nói là tích cực cống hiến mặt chánh diện.
Đức hiệu thứ chín, Thiên Nhân Sư
“Thiên” là Tam giới 28 tầng trời. Thế nhưng trong 28 tầng trời, Phật nói với chúng ta, trời Trường Thọ thì Phật không hiện thân, không nói pháp. Tại vì sao vậy? Họ không thể tiếp nhận, cho nên Phật đem trời Trường Thọ xếp vào một trong tám nạn. “Nạn” là gặp nạn. Gặp nạn gì vậy? Cắt đứt cơ hội nghe pháp. Các vị cần phải nên biết, tất cả chúng sanh nhân duyên thù thắng thứ nhất chính là nghe pháp. Căn tánh lanh lợi, thiện căn phước đức sâu dày, nghe pháp họ cũng có thể giác ngộ, thậm chí ở ngay trong một đời họ có thể chứng ngộ, họ có thể làm Phật. Các vị thử nghĩ xem, thù thắng dường nào! Nếu như đem cái cơ duyên nghe pháp này của chúng sanh làm lỡ mất đi, hay cắt đứt đi, cái tội này rất nặng, nghiêm trọng nhất là đọa Địa Ngục A Tỳ. Ai đến nơi đó chịu tội? Người nào phá hoại cơ duyên nghe pháp của tất cả chúng sanh. Tạo cái tội này thì nặng, hy vọng chúng ta phải ghi nhớ. Ngược lại mà nói, nếu chúng ta giúp đỡ tất cả chúng sanh, thành tựu tất cả chúng sanh có được cơ duyên nghe pháp, đó là cái thiện bậc nhất, không có một thiện pháp nào có thể so sánh được với cái thiện này.
Hai ngày nay, chúng ta có lẽ đã nghe qua, cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói lão cư sĩ Hồng quyên hiến đất cho chúng ta xây dựng thôn Di Đà. Một tháng trước tôi có đi thăm ông. Ông bị bệnh rất nặng, chúng tôi xem thấy hình tướng của ông có được sáng, không giữ được chiều. Chính ông cũng biết được, cho nên trong lòng của ông rất lo lắng, hy vọng trước khi ông chết làm một việc tốt, khu đất của ông vội vàng muốn hiến tặng để làm thôn Di Đà. Ông thành tâm thành ý tìm cư sĩ Lý, cư sĩ Lý cũng có thành ý giúp mọi người làm. Các vị phải nên biết, việc này không phải vì chính ông mà làm, chính ông tương lai cũng sẽ không ở trong đó, đây là vì chúng sanh tạo phước, vì mọi người kết pháp duyên thù thắng với A Di Đà Phật, giúp đỡ mọi người, thành tựu mọi người vãng sanh Thế Giới Cực Lạc. Cái duyên này quá thù thắng, phước báo này không ai có thể so sánh được với ông. Hồng lão tiên sinh phát ra cái nguyện này. Chúng tôi hoằng pháp từ Úc Châu trở về, cư sĩ Lý nói với tôi, ông nghĩ đến tương lai xây dựng thôn Di Đà cần phải có phí dụng, hiện tại vay tiền tương đối khó khăn, cho nên Hồng lão tiên sinh tự động đem giá đất giảm bớt một ngàn vạn. Giá ban đầu đã thoả thuận là hai ngàn năm trăm vạn, hiện tại là một ngàn năm trăm vạn, hơn nữa chỉ cần trả một ngàn vạn, ngoài ra còn năm trăm vạn có thể trả từ từ. Hồng lão tiên sinh bị bệnh ung thư cổ, cuống họng đã có một cái lỗ ba năm rồi, nói chuyện không nghe được rõ. Lần đầu tôi gặp mặt, ông nói chuyện âm thanh rất nhỏ, không nghe được một lời nào, sức khoẻ của ông rất suy kiệt. Sau khi phát ra cái tâm này không bao lâu, chưa được mấy ngày, bác sĩ xem bệnh cho ông thì thấy cái ung thư của ông đâu hết, nói với ông sau hai tháng nữa thì ông hoàn toàn hồi phục. Không thể nghĩ bàn! Tôi nghe nói, tôi lại đi thăm ông. Hôm trước tôi đi thăm ông, mặt mày ông sáng lạn, âm thanh dần dần rõ ràng, hôm trước nói chuyện rất nhiều, mỗi một câu mỗi một chữ ông nói tôi đều nghe được rất rõ ràng. Ông nói tiếng Phúc Kiến tôi nghe hiểu được, tôi nghe rất hoan hỉ. Tôi đem một sâu chuỗi tặng cho ông, hôm qua ông liền có cảm ứng. Hôm qua ông lại đến. Ông đi tìm cư sĩ Lý Mộc Nguyên, nói với cư sĩ Lý là: “Hiện tại tôi thật tin tưởng”. Ông nói, vốn dĩ cả đời ông đều hoài nghi, đều không tin tưởng. Ông nói buổi tôi hôm trước, ông ngủ thấy một giấc mộng, ông nói thật ra không như một giấc mộng, vì rõ ràng tường tận như ở cảnh thật. Ông thấy có hai người, một nam một nữ rất xinh đẹp đoan chánh, tướng mạo rất là xinh xắn đứng ở bên cạnh ông. Ông hỏi họ là các người là ai, từ đâu đến đây? Họ cũng không trả lời, chỉ khuyên ông phải nhẫn nại, cho dù là chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải nhẫn nại. Hồng tiên sinh gật gật đầu, cả đời Hồng tiên sinh chính là nóng vội, họ khuyên ông nhẫn nại. Sau đó lại nói với ông là “đến cũng không không, đi cũng không không”. Lão tiên sinh nghe rồi liền hiểu, gật gật đầu, lại hỏi họ. Họ nói hai người họ là do Ngọc Hoàng Đại Đế phái đến để chăm sóc ông. Chúng ta giảng trên kinh Hoa Nghiêm, cũng vừa lúc giảng đến 33 tầng trời. Ngọc Hoàng Đại Đế chính là Thiên chủ của 33 tầng trời, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Hồng lão cư sĩ nói: “Tôi 80 tuổi rồi, tuyệt đối không có nói vọng ngữ”. Việc này đích thực là sự thật, ông rất có lòng tin, sẽ xem thấy thôn Di Đà viên mãn thành tựu, ông có lòng tin. Hiện tại sức khoẻ càng ngày càng tốt hơn, tôi nghe nói sáng sớm ông còn xuống lầu vận động, làm cho chúng ta xem thấy tăng thêm lòng tin.
Phật Đà không chỉ là thầy của nhân gian, mà cũng là thầy của chư Thiên, cho nên gọi là “Thiên Nhân Sư”. Hiện tại người thế gian chúng ta đối với thầy, lòng tôn kính rất tan nhạt, thế nhưng Thiên nhân tôn kính đối với thầy tuyệt nhiên không hề giảm ít. Tại vì sao vậy? Họ có trí tuệ, họ đối với tất cả sự lý thấy được rõ ràng hơn chúng ta, thấy được rộng hơn so với chúng ta. Chúng ta khởi lên một tâm thiện, làm một ít việc thiện, thì Chư Phật Bồ Tát, thiên long thiện thần cảm ứng rõ ràng đến giúp đỡ chúng ta, giống như loại cảm ứng của Hồng lão cư sĩ, chúng ta thấy được rất nhiều, mỗi nơi mỗi chỗ đều có. Chỉ cần chúng ta phát ra là chân tâm, vì chúng sanh, vì xã hội, vì Phật pháp, tự nhiên liền cảm ứng được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần hộ vệ.
Cho nên chư Phật Bồ Tát đích thực là tấm gương tốt cho tất cả chúng sanh chín pháp giới, mô phạm của tất cả chúng sanh, đó gọi là sư. Ngày nay chúng ta tu học Phật pháp, tổng cương mục tu tập của chúng ta là “học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Hai câu nói này phải thường ghi nhớ. Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, có thể vì thế gian làm ra tấm gương tốt hay không? Chúng ta phải sâu sắc kiểm điểm. Nếu như không thể làm tấm gương tốt cho chúng sanh thì nhất định không thể làm, nếu như có thể làm tấm gương tốt cho chúng sanh thì chúng ta phải nên làm, không nên do dự, không nên hoài nghi.
Trên kinh nói rất hay, nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ Tát. Bồ Tát có thể thành Phật chính là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Ngày ngày chúng ta đang hô to, ngày ngày đang nhắc nhở đồng tu, nhưng chúng ta có làm được hay không? Đối với giáo huấn của Phật ở trên kinh có chân thật không hoài nghi hay không, chân thật lý giải hay không? Chăm chỉ nỗ lực mà học tập, chỉ cần chân thật tu học, quả báo thù thắng giống y như trên kinh đã nói, một chút cũng không sai.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
- Tag :
- HT Tịnh Không