Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tất Cả Là Không (song ngữ)

11 Tháng Bảy 201507:25(Xem: 9478)
Tất Cả Là Không (song ngữ)

Tất Cả Là Không
(It Is All Empty -  Gil Fronsdal)

Gil Fronsdal - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Tất Cả Là Không (song ngữ)Tất Cả Là Không

Mushin là một trong những nhà sư rạng rỡ hơn ai hết, trong tu viện. Sự an lạctính tình vui vẻ của ông, đã gây nguồn cảm hứng cho những ai tiếp xúc với ông. Ông dường như chẳng mong cầu gì cả, ông có tài riêng, là ông đến đúng nơi, và đúng lúc, khi có người cần ông giúp đỡ. Ông là người dọn dẹp trong tu viện, và ông luôn luôn kỹ lưỡng trong công việc ông làm, và chưa ai từng thấy ông bị khó chịu bởi bất cứ điều gì.

Một hôm tôi hỏi ông rằng, ông có gặp khó khăn trong cuộc sống ở tu viện không. Sau đây là những gì ông nói với tôi:

"Trước khi đến tu viện, cuộc sống của tôi rất khó khăn. Tôi thậm chí còn nghĩ đến việc tự tử, bởi vì tôi có quá nhiều đau khổ. Đối với tôi, tu việncon đường cùng. Tôi xem đây là cơ hội cuối cùng của tôi. Lần đầu, khi tôi đến đây, nhà sư trụ trì phỏng vấn tôi rất lâu. Ông đã hỏi tôi rất nhiều câu hỏi. Tôi đã nói với ông rất nhiều điều, mà tôi chưa bao giờ tiết lộ với ai cả. Vào phút cuối của buổi phỏng vấn, ông đã chào mừng tôi được ông nhận vào tu viện. Trước khi tôi chào ông từ giã, tôi hỏi ông chuyện thực hành tinh thần gì, mà tôi nên thực hiện. Vị sư trụ trì già ngước lên nhìn tôi với lòng từ bi, và sự tự tin, nên tôi nghĩ rằng ông đang chuẩn bị nói với tôi một điều gì rất quan trọng. Nhưng tôi đã nhầm khi câu ông nói chỉ là 'Hãy luôn luôn nhớ rằng, đi qua mọi cánh cửa, với tâm không-có-điều-kiện, và với tâm không-có-sự-hạn-chế.'

"Cả ngày hôm đó, tôi tự hỏi chắc là tôi đã nghe nhầm, nghe không có chính xác. Bởi vì, lời khuyên đi bộ qua những cánh cửa, lại có thể giúp ích cho kẻ chán đời, giống như tôi? Tôi nghĩ, có lẽ, vị sư trụ trì già nầy đang lú lẫn chăng.

"Nhưng ngày hôm sau, trước sự ngạc nhiên của tôi, những cánh cửa tu viện bắt đầu nói chuyện với tôi. Mỗi lần, tôi đi qua một cánh cửa, tôi nghe thấy một tiếng thì-thầm không rõ ràng. Lúc đầu, tôi nghĩ rằng tôi đang tưởng tượng, vì vậy tôi đã không thật tình chú ý. Nhưng sau khi tiếng thì-thầm nầy cứ tiếp tục xảy ra, nên tôi cố gắng hết sức mình, lắng nghe tiếng nói của những cánh cửa. Cuối cùng, tôi đã hiểu ra được câu nói nầy. Dường như mỗi cánh cửa, đang thì thầm những câu tương tự như: 'Tất cả là không.'

"Tôi hỏi những nhà sư khác, nếu họ có nghe những tiếng nói từ những cánh cửa, nhưng chẳng có ai nghe gì cả. Tôi hỏi họ có biết ý nghĩa của 'Tất cả là không.' Họ chỉ mỉm cười, và nhún vai, như thể họ chẳng có manh mối gì.

"Tôi quyết định, khá nhanh, rằng những tiếng nói là một lời nhắc nhở, về cuộc đời mà tôi đã bỏ lại phía sau lưng. Tất cả của cải của tôi, đi cùng với sự-theo-đuổi bất tận, mà tôi đã chạy theo sau, giống như là sự khao khát sôi sục để được mọi người ghi nhận thành tích của tôi, giống như là các tình cảm lăng nhăng vô độ của tôi với phụ nữ; tất cả điều nầy, thật sự, là không. Những cánh cửa thì-thầm dường như thể trấn an tôi rằng, tôi đã quyết định đúng đắn khi đến tu viện nầy. Những cánh cửa đã nhắc nhở tôi rằng, chẳng còn có điều gì bên ngoài các bức tường tu viện, để cho tôi rượt đuổi.

"Vì thế, đây là lần đầu tiên, những tiếng nói làm cho tôi hạnh phúc. Tin tưởng rằng thế giới mà tôi để lại phía sau lưng là sự tầm thường, không-quan-trọng, tôi hết lòng sống trong giới luật của tu viện. Thật là một niềm vui, khi tôi cuối cùng đã tìm ra được một cuộc sống có ý nghĩa! Tuy nhiên, những cánh cửa vẫn tiếp tục thì-thầm 'Tất cả là không,' cuối cùng, tôi bắt đầu hoài nghi về cuộc sống tu viện của tôi, có thật sự là tốt đẹp hay không. Hay là, cuộc sống trong tu viện nầy, cũng trống rỗng, và vô nghĩa? Tiếng nói càng lúc càng to hơn, như muốn làm tăng thêm sự lo lắng trong tâm tôi.

"Rồi, không lâu sau đó, tôi cảm thấy cuộc sống trong tu viện, cũng mang đến cho tôi nhiều thất vọng, giống y hệt như cuộc sống trước kia của tôi. Tôi đang cố gắng đi tìm một điều gì đó, để đem lại ý nghĩa, và mục đích cho cuộc sống, nên tôi đã quyết định dành nhiều thời gian cho thiền định, và qua đó phát triển đời sống nội tâm của tôi. Chắc chắn, việc theo đuổi thành tựu về tinh thần, sẽ thật sự có ý nghĩa.

"Việc thực hành thiền định, dường như làm nhẹ đi sự tuyệt vọng trong tim tôi, và khi tôi thiền định sâu xa, đã mang đến cho tôi tràn đầy sự tự tin. Tôi bắt đầu cảm thấy khá hạnh phúc, thậm chí tôi còn vui vẻ, và không còn quan tâm đến tương lai. Tôi đã tìm thấy chìa khóa của hạnh phúc, và tôi đã bị thuyết phục rằng, tôi đã vượt qua mọi nhà sư khác về sự cao quý. Nhưng mỗi khi tôi rời thiền đường, những cánh cửa lại thì-thầm, 'Tất cả là không.'

"Sau một thời gian, điều nầy bắt đầu chà xát, thân tâm tôi. Tôi ngày càng trở nên tức giận, vì những tiếng nói có vẻ gợi ý rằng, danh-tính-mới của tôi như là một người có tinh thần sâu sắc, thật ra là sự trống rỗng. Khi cơn giận trở nên quá sức tôi chịu đựng, tôi đã bị buộc phải thừa nhận rằng, sự kiêu căng, và lòng tự phụ của tôi, cũng chỉ là sự trống rỗng.

"Khi sự tức giận trôi qua, tôi tiếp tục với sự thực hành thiền định. Cuối cùng, với tôi chẳng còn điều gì, có ý nghĩa nữa. Nhưng sau đó, những tiếng nói bắt đầu bình luận về sự thiền định. Tôi nghe, một lần nữa, 'Tất cả là không.' Như vậy, chính thiền định cũng chẳng có ý nghĩa gì cả à?

"Sự tuyệt vọng của tôi, đã trở lại với một sự trả thù. Tôi đã cố gắng trốn chạy vào phòng của tôi, do đó tôi sẽ không phải đi qua bất cứ cánh cửa nào. Tôi đã trèo qua cửa sổ bất cứ khi nào tôi có thể làm được. Nếu tôi phải đi qua một cánh cửa, tôi chạy băng qua, cố gắng giữ khoảng cách giữa tôi và những giọng nói. Nhưng giờ đây, những tiếng nói đã trở nên thật lớn. Khi tôi chạy xuống hội trường, cụm từ 'Tất cả là không' vang vọng sau lưng tôi.

"Sau một thời gian, mọi suy nghĩ tôi có, mọi mong muốn tôi hy vọng, và mọi nỗ lực của tôi, đều bị tấn công bởi câu 'Tất cả là không,' đang vang vọng ra khắp tu viện. Tôi không thể nào chịu đựng được nữa. Tôi chạy về phía trước cổng tu viện, và tôi có ý định đi tìm một vách núi cao, rồi nhảy xuống tự tử. Thật là một điều vô lý để tiếp tục sống, khi mà cuộc sống lại quá khó khăn như thế nầy. Trên đường tôi đi đến cổng trước, những cánh cửa trở nên lớn hơn, nhưng mờ nhạt trước mắt tôi. Tôi đã quá sợ hãi để vượt qua những cánh cửa. Tôi cảm thấy tôi không thể nào tồn tại, nếu tôi phải nghe thêm một câu nói 'Tất cả là không.'

"Tôi đứng đó, thân tâm buốt giá, trong một thời gian rất lâu, nhưng sau đó, tôi nhớ đến câu thực hành mà vị sư trụ trì già đã nói với tôi, vào ngày đầu tiên tôi đến tu viện: 'Hãy luôn luôn nhớ rằng, đi qua mọi cánh cửa, với tâm không-có-điều-kiện, và với tâm không-có-sự-hạn-chế.' Lời hướng dẫn dường như trống rỗng, và vô nghĩa, khi lần đầu tiên tôi nghe nó. Bây giờ, nó trở nên rất to lớn. Tuy nhiên, tôi không thể chế ngự được chính mình, để đi qua cửa trước.

"Bên trong đầu tôi, một giọng nói liên tục lặp lại 'Tất cả là không. Tất cả là không.' Tâm tôi không thể tìm thấy bất cứ sự vật gì để dựa vào, bởi vì khi tâm tôi làm như thế, tôi lại được nhắc nhở rằng, sự vật nầy cũng là không. Tâm tôi càng ngày càng trở nên thu-nhỏ-lại, quay ngược trở vào trong tâm. Tâm tôi đẩy ra ngoài mọi thứ, cho tới khi những-gì-còn-lại trong tôi, chỉ là tâm sợ hãi. Sau đó, lần cuối cùng, một giọng nói bùng nổ ra, 'Tất cả là không,' và với câu nói nầy, tôi buông xả tâm tôi. Tôi đưa chân tôi quay trở lại, rồi, một lần nữa, tôi bước vào tu viện.

"Kể từ ngày đó, những tiếng nói đã ngừng lại, và tôi đã không bao giờ phải lo lắng, về ý nghĩa của bất cứ điều gì. Không-tuyệt-vọng, và cũng không-hy-vọng, đều thích hợp, đối với tôi. Hạnh phúc thay cho chúng ta, tánh-không thấm qua tất cả mọi vật."

 

It Is All Empty

Mushin was one of the more radiant monks in the monastery. His peace and joy inspired everyone who met him. Never seeming to want anything, he had a knack for being in the right place at the right time when others needed help. He was always thorough in doing his job as the monastery janitor and no one had ever seen him bothered by anything.

One day I asked him if monastic life had ever been difficult. This is what he said:

“Before coming to the monastery, my life was very hard. I even considered ending my life because my suffering was so great. For me the monastery was the end of the road. I saw it as my last chance. When I first arrived I had a long interview with the abbot. He asked me lots of questions. I told him things about my life that I had never revealed to anyone. At the end of the interview he welcomed me to the monastery. As I took my leave, I asked what sort of spiritual practice I should undertake. The old abbot looked up at me with such compassion and confidence that I thought he was preparing to tell me something very important. But I was confused when all he said was, ‘Always walk completely through the doors.’

“For the rest of that day I wondered if I had heard correctly. How could walking through doors be helpful advice to someone as despondent as me? Perhaps the old man was becoming senile.

“But the next day, to my surprise, the monastery doors started talking to me. Every time I went through a door I heard a faint whisper. At first I thought I was imagining it so I didn’t give it much attention. But when the whispering kept occurring, I strained to hear what was being said. Finally, I was able to make out the words. It seemed each door was whispering the same thing: ‘It is all empty.’

“I asked the other monks if they too heard the voices but none did. I asked them if they knew the meaning of ‘It is all empty.’ They just smiled and shrugged their shoulders, as if they didn’t have a clue.

“Pretty quickly I decided that the voices were a reminder of the life I had left behind. All my possessions, along with the endless pursuits I had run after, the burning drive for recognition, the insatiable womanizing; all of that was indeed empty. The whispering doorways seemed to be reassuring me that I had made the right decision in coming to the monastery. They were reminding me that no longer was there anything outside the monastery walls for me to go after.

“So, at first, the voices made me happy. Convinced that the world I left behind was shallow, I threw myself wholeheartedly into the monastic routine. What a delight it was to have finally found a meaningful life! But as the doorways continued to whisper ‘It is all empty,’ I eventually began to have doubts about my monastic life as well. Was this life also hollow, meaningless? Adding to my concerns, the voices started to grow louder.

“Before long I felt as much despair about monastic life as I had about my previous life. Trying to find something that would give meaning and purpose to my life, I decided to devote more time to meditation and thereby develop my inner life. Certainly the pursuit of real spiritual attainments would be meaningful.

“The meditation practice seemed to lighten my despair, and when my meditations were deep I was filled with confidence. I began to feel quite happy, even happy-go-lucky. I had found the key to happiness and was convinced that I was surpassing all the other monks in holiness. But every time I left the meditation hall the doors whispered again, ‘It is all empty.’

“After a while this began to grate on me. I became increasingly angry because the voices seemed to suggest that my newfound identity as a deeply spiritual person was empty. When the anger became too much to bear, I was forced to admit that I had been caught in pride and that my vanity, too, was empty.

“Once the anger passed, I carried on with my meditation practice. After all, nothing else seemed to make sense. But then the voices starting commenting on the meditation itself. I heard again ‘It is all empty.’ Did this mean that meditation itself was meaningless?

“My despair returned with a vengeance. I tried hiding in my room so I wouldn’t have to go through any more doors. I took to climbing through windows whenever possible. If I did have to pass through a door, I ran through trying to distance myself from the voices. But by now the voices had grown very loud. As I ran down the halls the phrase ‘It is all empty’ echoed after me.

“After a while, every thought I had, every wish I hoped for, and every effort I made was assaulted by ‘It is all empty’ resonating throughout the monastery. I couldn’t take it anymore. I ran toward the front gate of the monastery intending to find a tall mountain cliff and throw myself off. It no longer made sense to keep on living if life was going to be so hard. But as I came to the front gate the doors loomed large in front of me. I was too frightened to pass through them. I felt I couldn’t survive one more voice telling me that ‘It is all empty.’

“I stood there, frozen for a long time, but then remembered the practice the old abbot had given me on my first day in the monastery: ‘Always walk completely through the doors.’ The instruction seemed so empty and meaningless the first time I heard it. Now it seemed monumental. Still, I could not manage to get myself to pass through the front gate.

“Inside my head, a voice kept repeating ‘It is all empty. It is all empty.’ My mind couldn’t find any object to rest on because when it did I was reminded that it too was empty. My mind became increasingly contracted, turning in on itself. It kept pulling away from everything until all that was left was the frightened mind itself. Then, one last time, a voice boomed out, ‘It is all empty,’ and with that I let go of my mind. I turned around and re-entered the monastery.

“Since that day the voices stopped and I’ve never again worried about the meaning of anything. Neither despair nor hope is relevant for me. Happily, emptiness permeates everything.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 145)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 195)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 218)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 285)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 196)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 246)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 311)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 273)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 298)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 375)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 612)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 471)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 483)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 574)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 834)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 710)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 714)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 813)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 939)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 716)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 613)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 710)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 824)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 711)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 823)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 826)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 886)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1665)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1278)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1558)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1098)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1290)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant