Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi

17 Tháng Giêng 201614:41(Xem: 8048)
Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi

BẢN DỊCH VIỆT 12 KỆ TỤNG
QUÁN MƯỜI HAI CHI CỦA DUYÊN KHỞI

(Bản dịch Cưu-Ma-La-Thập thu gọn thành 9 kệ tụng)

Bản dịch Việt:  Đặng Hữu Phúc


Bản Dịch Việt 12 Kệ Tụng Quán Mười Hai Chi Của Duyên Khởi


Tụng 1.

Do vô minh che lấp,
chúng sinh tạo ba hành,
nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm)
vào luân hồi sáu cõi.

*

Tụng 2

Ba hành nghiệp quá khứ,
duyên thức đi sáu cõi.
Ở nơi thức an lập,
danh và sắc tăng trưởng.

*

Tụng 3

Danh và sắc tăng trưởng,
làm duyên sinh sáu xứ.
sáu xứ làm duyên,
nên sáu xúc sinh khởi.

*

Tụng 4

Mắt làm duyên cho sắc,
và thấy sắc trong tâm;
Cũng vậy, thức làm duyên,
danh và sắc sinh khởi.

*

Tụng 5

Khi mắt, sắc và thức
hội tụ gọi là xúc.
sáu xúc làm duyên,
thế nên thọ sinh khởi.

*

Tụng 6

Thọ làm duyên, ái sinh
theo đối tượng của thọ.
Ái làm duyên cho thủ,
bốn loại thủ hiện diện.

*

Tụng 7

Khi có thủ: có hữu
của kẻ thủ sinh khởi.
Không thủ: sẽ giải thoát
vì sẽ không có hữu.

*

Tụng 8

Hữu này là năm uẩn.
Từ hữu nên có sinh.
Già và chết, và sầu,
bi, khổ, và vân vân,

*

Tụng 9

cộng thêm ưu, não:
chúng đều đến từ sinh.
Những gì sinh khởi
khổ gắn vào năm uẩn.

*

Tụng 10

Gốc sinh tử: hành nghiệp.
Kẻ vô minh: tác giả.
Kẻ trí thấy pháp tính
và không là tác giả.

*

Tụng 11

Khi vô minh diệt tận,
hành nghiệp không sinh khởi.
Vô minh diệt do tuệ
và thiền Lý duyên khởi.

*

Tụng 12.

Chi vô minh này diệt,
nên chi sau cũng diệt,
mỗi chi làm sao sinh?
Nên khổ năm uẩn diệt.

---------------

Chú thích 1

Bản dịch Việt, Trung Luận, chương XXVI, căn cứ vào 5 bản dịch dưới đây:

1. Bản dịch Thupten Jinpa (2009) (dịch từ Tạng-Anh) trong The Dalai Lama . The Middle Way. Faith grounded in Reason. 2009

2. Bản dịch Ngawang Samten & Garfield (2006) (dịch từ Tạng- Anh). trong Tsong Khapa . Ocean of Reasoning. 12006

3. Bản dịch Sanskrit- English của K.K. Inada (1970, reprinted 1993)

4. Bản dịch Sanskrit – English của Louis de La Vallé Poussin 1970

5. Bản Trung luận thích—Thanh Mục, do La Thập dịch Hán, và Thiện Siêu dịch Việt (2001).

[1] Bản dịch Tibetan- English
The Dalai Lama. The Middle Way. Faith grounded in Reason. Translated by Thupten Jinpa. (2009)

1. Obscured by ignorance and for the sake of rebirth we create the three kinds of action; it is these actions constructing [existence] that propel us through transmigration.

2. With volition as its condition, consciousness enters transmigation.

Once conscious has entered, name and form come to be.

3. Once name and form have developed, the six sense spheres come into being.

Depending on the six sense spheres, contact come into being.

4. It arises only in dependence on eye, form, and apprehension; thus, in dependence on name and form, consciousness arises.

5. The convergence of the three - eye, form, and consciousness – this is contact; from contact feeling comes into being.

6. Conditioned by feeling is craving; one craves because of feeling;

When one craves, there is grasping; the four kinds of grasping [take place].

7. Where there is grasping, the becoming of the grasper thoroughly comes to be.

Were there no grasping, being free, there would be no becoming.

8. This becoming is also the five aggregates, and from becoming emerges birth. Aging, death, and sorrow, grief, suffering, and so on,

9. As well as unhappiness and agitation: these come from birth. What comes into being is only a mass of suffering.

10. The root of cyclic existence is action; therefore, the wise do not act. The unwise one is an agent; the wise one is an agent; the wise one, seeing suchness, is not.

11. When ignorance has ceased, action will not arise. Ignorance ceases through insight into meditation on suchness.

12. Through the cessation of this and that, this and that do not manifest; in this way the entire mass of suffering ceases completely.

________________________________

[2] Bản dịch Tibetan - English
Trích từ: Rje Tsong Khapa. Ocean of Reasoning.
Translated by Geshe Ngawang Samten and Jay. L. Garfield. (2006)

1. The three kinds of actions that lead to rebirth,

Performed by one obscured by ignorance,

Are the karma that impel one

To further transmigration.

2. Having action as its conditions,

Consciousness enters transmigration.

One consciousness has entered transmigration,

Name and form come to be.

3. Once name and form come to be,

The six senses come into being.

Depending on the six senses,

Contact comes into being.

4. That is only dependent

On eye and form and retention.

Thus depending on name and form,

Consciousness arises.

5. That which is assembled from the three –

Eye, and form and consciousness –

Is contact. From contact

Feeling comes to be.

6. Conditioned by feeling is craving.

Craving arises for feeling.

When one craves,

The four objects of appropriation will be appropriated.

7. When there is appropriation,

The existence of the appropriator arises.

If he did not appropriate,

Then being freed, he would not come into existence.

8. This existence is also the five aggregates.

From existence comes birth,

Old age, and death and misery and

Suffering and lamentation…

9. Unhappiness and agitation.

All these arise as a consequence of birth.

Thus what comes into being

Is only a mass of suffering.

10. The root of cyclic existence is action.

Therefore, the wise one does not act.

Therefore the unwise is the agent.

The wise one is not, because he sees reality.

11. With the cessation of ignorance,

Action will not arise.

The cessation of ignorance occurs through

Exercising wisdom in meditating on this.

12. Through the cessation of this and that,

This and that will not be manifest.

That which is only a mass of suffering

Will thus completely cease.

Note: Having abandoning ignorance, action will have ceased. Similarly, through the cessation of the earlier limbs – the “this and that”—the later limbs—“this and that”—will not arise.

____________________

[3] Bản dịch Sanskrit-English: K.K. Inada:
Chapter XXVI. Examination of the Twelvefold Causal Analysis of Being
Translated by K.K. Inada

1. Those who are deluded by ignorance create their own threefold mental conformations in order to cause rebirth and by their deeds go through the various forms of life.

Note: The three fold mental conformations refer to those related to the body, speech  and mind.

The various forms of life refer to the following: hellish beings, hungry spirits, beats, evil spirits, human beings and heavenly beings.

2. The consciousness (vijnana), conditioned by the mental conformations, establishes itself with respect to the various forms of life. When the consciousness is established, name (nama) and form (rupa) are infused or become apparent.

3. When name and form are infused or become apparent the six ayatanas (i.e. seats of perception) arise. With the rise of six ayatanas, touch evolves.

4. As in the composite relation nature of the eye and its material  form, consciousness arises in a similar relational nature of name and form.

5. The harmonious triadic nature of form, consciousness and eye issues forth touch. And from the touch arises feeling.

6. Relationally conditioned by feeling, craving arises because it “thirsts after” the object of feeling. In the process of craving, the fourfold clinging are seized.

Note: Reference to clinging of passions, dogmatic views, rigid rules of conduct, and selfhood (kama, drsti, sila, atman)

7. When there is clinging perception, the perceiver generates being (bhava) .When there is no clinging perception, he will be freed and there will be no being.

8. Being is (always in reference to) the five skandhas and from being birth arises. Old age - death, suffering, etc., misery, grief….(continues to next verse.)

9. ….despair and mental disturbance arise from birth. In this manner the simple suffering attached to the skandhas comes into being.

10. Consequently, the ignorant creates the mental conformations which form the basis of samsaric life. Thus the ignorant is the doer while the wise, seeing the truth (tattva), does not create.

11. When ignorance is banished mental conformations do not arise. But the extinction of ignorance is dependent upon the wisdom of practicing (the cessation of the twelvefold causal analysis of being).

12. By the cessation of the various links of the causal analysis, each and every subsequent link will not arise (i.e. become a hindrance). And thus this simple suffering attached to the skandhas is rightfully extinguished.

 ---------------

[4] Bản dịch  Sanskrit-English
XXVI. Analysis of the Twelvefold Chain of Interdependent Origination.
Translated by Louis de La Vallé Poussin

*

1. Three dispositions leading to rebirth are formed by

unexplained ignorance which moves by means of those actions.

2. Consciousness is connected  with past disposition and conditioning.

Wherein consciousness deeply enters, name and form [mind/body] is infused.

3. Where name and form is infused, six sense - spheres arise.

The six senses having arrived, contact comes forth.

4. Form and attention are dependent on the eye.

Name and form is dependent on consciousness coming forth.

5. The conjunction of the three, which are eye, consciousness, and form, is contact. And from contact, feeling comes forth.

6. Craving is conditioned by feeling, indeed, craves  because of feeling.

He is laid hold of by grasping fourfold craving.

7. Where grasping exists, the being who grasps is set in motion.

Indeed, if there would be no grasping, he would be released and there would be no being [who grasps].

8. He, the being, is five skandhas and from being, rebirth is set in motion, together with lamentations, afflictions, suffering, etc …, old age and death.

9. Together with despair, all this set in motion from birth.

Thus is the origin of this entire mass of suffering.

10. Hence the ignorant compose dispositions, the roots of samsara.

Therefore, the ignorant create while the wise, seeing reality, do not.

11. Since the destruction of dispositions is the cessation of ignorance,

cessation of ignorance is from the practice based on knowledge.

12. With the cessation of [ignorance], which [link on the causal chain] advance to what [next link]?

Thus the entire mass of suffering is rightly ceased.

------------

[5] Bản dịch Phạn- Hán của Ngài Cưu Ma La Thập
(Ngài thu gọn 12 bài tụng thành 9 bài)
Chương XXVI Quán thập nhị nhân duyên

*

1. Chúng sinh si sở phục
vi hậu khởi tam hành
dĩ khởi thị hành cố
tùy hành nhập lục thú.

*

2. Dĩ chư hành nhân duyên
thức thọ lục đạo thân
hữu thức trước cố
tăng trưởng ư danh sắc.

*

3. Danh sắc tăng trưởng cố
nhân nhi sinh lục nhập
tình trần thức hoà hợp
dĩ xưng ư lục xúc.

*

4. Nhân ư lục xúc cố
tức sinh ư tam thọ
dĩ nhân tam thọ cố
nhi sinh ư khát ái.

*

5. Nhân ái hữu tứ thủ
nhân thủ cố hữu hữu
nhược thủ giả bất thủ
tắc giải thoát vô hữu.

*

6. Tòng hữu nhi hữu sinh
tòng sinh hữu lão tử
tòng lão tử cố hữu
ưu bi chư khổ não.

*

7. Như thị đẳng chư sự
giai tòng sanh nhi hữu
đản dĩ thị nhân duyên
nhi tập đại khổ ấm.

*

8. Thị vị vi sinh tử
chư hành chi căn bản
vô minh chư sở tạo
trí giả sở bất vi.

*

9. Dĩ thị sự diệt cố
thị sự tắc bất sinh
đản thị khổ ấm tụ
như thị nhi chính diệt.

-----------------------

TRUNG LUẬN 
Bản dịch Việt:  HT Thích Thiện Siêu . 2001

1.  Chúng sinh bị ngu si che lấp, làm khởi lên ba hành nghiệp, vì khởi lên hành nghiệp ấy, nên phải theo hành nghiệpđi vào sáu nẻo.

2.  Vì nhân duyên của các hành nghiệp, nên nghiệp thức phải chịu mang thân trong sáu nẻo, vì có thức đắm trước nên làm tăng trưởng danh và sắc.

3.  Do danh, sắc tăng trưởng, nên sinh ra sáu nhập, sáu căn, sáu trần và sáu thức hòa hợp mà sinh ra sáu xúc.

4.  Nhân sáu xúc liền sinh ra ba thọ, nhân ba thọ mà sinh ra khát ái .

5.  Nhân khát ái mà có bốn thủ, nhân thủ mà có hữu, nếu người chấp thủkhông chấp thủ, thời được giải thoát không có hữu.

6.  Do hữu mà có sinh, do sinh mà có già chết, do già chết nên có các khổ não buồn lo.

7.  Các việc như vậy đều do sinh mà có, chỉ vì nhân duyên ấy mà tập thành thân ngũ uẩn đại khổ.

8.  Như thế gọi là sinh tử, do các hành nghiệp làm cội gốc, người vô minh gây tạo, còn người trí thì không làm.

9.  Do sự này diệt, nên sự kia không sinh; chỉ khi nào thân năm uẩn đau khổ được tịch diệt không sinh, như vậy mới là thật diệt.

---

Chú thích 2

Các bài về Mười hai chi của Duyên khởi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 638)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 669)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 794)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 769)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1745)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1160)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 970)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 818)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 949)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1143)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1174)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1253)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant