Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Cương Học Thuyết Nhà Phật

Wednesday, February 10, 201611:06(View: 6824)
Đại Cương Học Thuyết Nhà Phật

ĐẠI CƯƠNG HỌC THUYẾT NHÀ PHẬT

HT Thích Phổ Tuệ

Đai Cuong


Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.


1. Về Giáo

Giáo là Pháp do đức Phật hiện thân nói ra ở thế gian, để giáo hoá cho giới hữu tình đời sau. Thời ấy chỉ có lời nói mà chưa có văn tự, cho nên chưa có sách vở. Lấy âm thanh làm thể nói bàn. Dựa vào âm thanh cao, thấp, ngắn, dài mà thành tên (danh). Gom góp tên lại thành ra câu (cú). Danh cú dựa vào nhau thành văn. Thời Phật, bấy giờ cũng lấy âm thanh làm thể chủ, tất nhiên khôngvăn tự, người nghe dựa vào lời Phật nói mà tu chứng.

Cho đến khi Phật thuyết Pháp độ người đã xong và diệt độ rồi, chúng đệ tử nhân thời Phật đã đi xa, sợ sau không dựa vào đâu được mới đem giáo pháp mà Phật đã giảng mà họ đã nghe được, ai là người nghe được nhớ nhiều thì đọc truyền khẩu lại, được đại chúng chứng minh, chép thành kinh sách. Đó là lời của Phật di giáo.

Lời Phật di giáo này không giống như những học thuyết, học lý thông thường. Vì những học thuyết thông thường dựa vào thường thức suy xét nửa tối, nửa sáng mà thành, lấy việc đã biết xét việc chưa biết. Giống như khoa học trong thời còn đang nghiên cứu, đó là tri thức mới một tầng kinh nghiệm. Như lúc trước nói “trời tròn đất vuông”, sau mới biết trái đất vốn hình quả cầu. Ở đó, lời nói không xác định, nghĩa theo thời mà biến động.

Giáo pháp của Phật có nguồn gốc không giống với nguồn gốc các học thuyết khác, đó là chí giáo từ trong thánh trí lưu thông ra. Vì vậy, đến với giáo pháp của Phật phải dùng sức tin mà lãnh nhận. Điểm này cũng như tin tôn giáo, không có khác. Phật pháp không phải là tôn giáo mà cũng lại là tôn giáo, cho nên muốn giảng Phật Pháp trước hết phải tin là có Phật.

Phật là tiếng gọi tắt, gọi đủ là Phật Đà. Vì nghĩa từ Phật là giác giả, là trỏ vào người đã được giác ngộ một cách cao cả, đúng đắn, chính xác và rộng khắp nhất. Trong cõi này, người đã được chính biến giác cao cả nhất chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện thân thuyết pháp độ người, có giáo pháp  lưu truyền, để lại cõi đời. Nhưng ở đây lại không giống như các tôn giáo khác vì Ngài nói: Nếu người đời ai thực hành, thực chứng tới vô thượng chính biến giác thì người ấy cũng thành Phật. Vì vậy, người ta cuối cùng quyết bình đẳng.

2. Về Lý

Khi người ta chưa thành Phật mà muốn cầu thành Phật thì  trước hết phải tin nhân giáo pháp của Phật. Nhưng tin cũng không phải là tin một cách mù quáng. Bởi vì, người ta nếu tin có lý chân thật của các pháp trong pháp giới, thì phải giác ngộ chân lý ấy đến viên mãn, đó là chính giác cao cả nhất.

Phật ở trong chính giác cao cả nhất ấy, không một sát - na nào không phóng ra sự sáng suốt hiểu biết hoàn toàn trên, dưới, trong, ngoài. Không phải là trước hiểu biết thế nào mà sau  vẫn lại hiểu biết như thế ấy.

Tự giác của Phật đã đến địa vị viên mãn, thì không còn phải học thuyết, học lý, học tập, học tác gì nữa. Cho nên gọi là “vô học”.

Nhưng, Phật thì đã chứng vào cảnh giới giác ngộ như hư không, như gương Đại Viên (tròn lớn) soi khắp bao la, mà tất cả chúng sinh chưa chứng được vào tướng chân thật của vạn hữu trong pháp giới, bởi vì còn mê muội, điên đảo nên sinh ra rất nhiều phiền não đau khổ.

Phật rất thương xót cho nên phải đặt ra giáo pháp danh, cú, văn, thân để khiến cho chúng sinh giác ngộ.

Giáo pháp của Phật có hai phương diện:

Thứ nhất, hợp với chân lý, trong nhất niệm của Phật soi rõ khắp lý chân thật của vạn hữu trong pháp giới, luôn luôn hợp nhau, không hề có một mảy may sai lầm. Vì vậy nói các pháp đều hợp chân lý.

Thứ hai, hợp với căn cơ, người nghe phápcăn khí bậc nào, cơ cảm loại nào thì giải thuyết theo phương tiện ấy.

Hai phương diện tựa hồ như xung đột nhau, bởi vì tâm trí chúng sinh không bằng Phật, tuỳ thuận chúng sinh thì không hợp lý, nhưng tuỳ cơ thuyết pháp là lối khéo léo làm việc giáo hoá của Phật, lần lượt đều khiến thông đạt tới cảnh giới Phật, đều khiến tới cảnh giới Phật. Đó là giáo pháp đặt bày từ trong vô thượng chính biến giác, vô thượng lưu thông ra. Chỉ có loại thi thiết này là phải hệ thuộc cơ cảm mà có. Còn Phật với Phật thì không phải thế.

Giáo pháp được thi thiết lưu thông này, dựa vào vạn pháp duy thức mà nói, cũng có hai phương diện:

Thứ nhất, Danh, cú, văn, thân vô lậu thanh tịnh từ trong tâm Phật chính biến giác vô thượng lưu thông ra. Đó là cơ cảm từ chúng sinh trong tâm Phật mới lưu thông ra được, gọi là giáo lý bản chất hay nguyên chất.

Thứ hai, Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất, người ta không đích thân duyên trực tiếp được, chỉ dùng được tâm hữu lậu làm duyên tăng thượng, ở trong tâm mình sinh ra một loại ảnh tượng (bóng dáng), thế là giáo ảnh tượng. Đẩy giáo ảnh tượng này về với giáo bản chất thì trong Phật giáo được gọi là thánh giáo hay trí giáo. Pháp thường nghìn đời vẫn không biến đổi, khắp bốn bể cũng đều chuẩn cả, không có gì gọi là học cả.

Sở dĩ có sự học là vì ở Pháp lý thứ hai (Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất), về giáo lý có thể bàn được, nhưng phải dùng lời Phật làm duyên tăng thượng. Người nghe pháp đối với giáo pháp được nghe, ngẫm nghĩ, suy xét hiểu được rõ ràng thì có học lý về Phật pháp.

Phàm gọi là Kinh đều là Pháp Phật thuyết ra. Đời sau lại có người dựa vào giáo pháp của Phật mà bàn giải kỹ lưỡng mở rộng, thì được gọi là Luận. Học lý về Luận đã thành tinh vi, rõ ràng, chính xác, như các luận Đại Tỳ Ba Xa, Du Già Sư Địa,  v. v.  Xét về căn nguyên, những luận này đều có được từ giáo Pháp của Phật để lại.

3. Về Hành

Giáo Pháp của Phật vốn được xuất ra từ chính biến giác vô thượng. Vì vậy nên người ta muốn biết giáo lý Phật cũng cần phải biết được vô thượng chính biến giác. Nhưng làm thế nào mới chứng được thì lại phải cần phải giảng về phương pháp tu hành. Vậy nên việc tu hành là việc thứ ba cần giảng rõ. Trong việc tu hành có 3 tu học tăng thượng đó là Giới. Định, Tuệ. Tu Giới thế nào? Thiền định thế nào? Thế nào để đạt được Đại trí tuệ? (Tác giả đã trình bày trong tiểu luận “Phật học là Tuệ học”). Tu hành như thế thì mới có thể được vô thượng chính biến giác, tức là Quả Đại Bồ Đề, chứng nhậphiểu rõ ràng thật tướng các Pháp trong Pháp giới.

4. Về Quả

Thể loại thứ Tư gọi là quả. Đã được quả rồi  thì cũng có thể lấy đấy để khai thị, giác ngộ cho người sau.

Giáo lý “Hành Quả” cũng không phải cách biệt hẳn với nhau. Bởi vì, tư duy quan sát tức là hành, nhân tu hành mà lý càng rõ. Lý giải và tu hành cùng tiến như người đi đường, mặt và đế chân đồng thời cùng phát sinh tác dụng. Vả chăng, tuy ít rõ lý giải, chưa đạt quả vị cứu kính nhưng cũng đã thành hiệu quả. Tuy ít có hiệu quả, mà không cho là tự túc (tự mãn) thì cuối cùng vẫn có thể đạt tới chính biến giác.

Tư tưởng, trí thức của người thường đều không xa lìa Ngã chấp, Pháp chấp, nên họ bảo các loại học lý không tránh khỏi vọng tình, suy lường, phỏng đoán. Do vậy họ không thể nhận được chân lý rốt ráo.

Muốn cầu chân lý không thể không dựa vào Giáo pháp của Phật và Học lý của Cổ đức để làm căn cứ nghiên cứu.

Như vậy, học lý của Phật mà người tu học có được là nhờ học lý của thánh quả Tam thừa hữu học, vừa y vào thánh giáo, vừa y vào tự chứng để thành. Hơn nữa là vì học lý nội ngoại điển, phàm mới học đều phải dựa vào văn tự thánh giáo mà nên.

Phật học đại lược là như thế./.

Viên Minh Pháp tự, mạnh xuân Đinh Hợi, 2007 (Phật Tử Việt Nam)

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 101)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(View: 75)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(View: 80)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(View: 87)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(View: 149)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(View: 205)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và
(View: 315)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(View: 627)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lý và giác ngộ chân lý.
(View: 446)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(View: 433)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyên mà Trung đạo được định nghĩa khác nhau,
(View: 352)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(View: 406)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giới và chúng sanh.
(View: 544)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(View: 591)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(View: 585)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(View: 427)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(View: 426)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(View: 620)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(View: 528)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(View: 619)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(View: 866)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(View: 716)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(View: 685)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(View: 542)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(View: 661)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(View: 697)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(View: 688)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(View: 705)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(View: 651)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(View: 933)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(View: 604)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(View: 639)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(View: 830)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(View: 704)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(View: 775)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(View: 653)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(View: 696)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(View: 811)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(View: 788)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(View: 697)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(View: 647)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(View: 767)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(View: 788)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(View: 741)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(View: 665)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(View: 791)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(View: 1180)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(View: 747)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(View: 786)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(View: 758)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(View: 798)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(View: 739)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(View: 739)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(View: 903)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(View: 727)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(View: 930)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(View: 1320)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(View: 871)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(View: 1097)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM