Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Cương Học Thuyết Nhà Phật

Wednesday, February 10, 201611:06(View: 8838)
Đại Cương Học Thuyết Nhà Phật

ĐẠI CƯƠNG HỌC THUYẾT NHÀ PHẬT

HT Thích Phổ Tuệ

Đai Cuong


Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.


1. Về Giáo

Giáo là Pháp do đức Phật hiện thân nói ra ở thế gian, để giáo hoá cho giới hữu tình đời sau. Thời ấy chỉ có lời nói mà chưa có văn tự, cho nên chưa có sách vở. Lấy âm thanh làm thể nói bàn. Dựa vào âm thanh cao, thấp, ngắn, dài mà thành tên (danh). Gom góp tên lại thành ra câu (cú). Danh cú dựa vào nhau thành văn. Thời Phật, bấy giờ cũng lấy âm thanh làm thể chủ, tất nhiên khôngvăn tự, người nghe dựa vào lời Phật nói mà tu chứng.

Cho đến khi Phật thuyết Pháp độ người đã xong và diệt độ rồi, chúng đệ tử nhân thời Phật đã đi xa, sợ sau không dựa vào đâu được mới đem giáo pháp mà Phật đã giảng mà họ đã nghe được, ai là người nghe được nhớ nhiều thì đọc truyền khẩu lại, được đại chúng chứng minh, chép thành kinh sách. Đó là lời của Phật di giáo.

Lời Phật di giáo này không giống như những học thuyết, học lý thông thường. Vì những học thuyết thông thường dựa vào thường thức suy xét nửa tối, nửa sáng mà thành, lấy việc đã biết xét việc chưa biết. Giống như khoa học trong thời còn đang nghiên cứu, đó là tri thức mới một tầng kinh nghiệm. Như lúc trước nói “trời tròn đất vuông”, sau mới biết trái đất vốn hình quả cầu. Ở đó, lời nói không xác định, nghĩa theo thời mà biến động.

Giáo pháp của Phật có nguồn gốc không giống với nguồn gốc các học thuyết khác, đó là chí giáo từ trong thánh trí lưu thông ra. Vì vậy, đến với giáo pháp của Phật phải dùng sức tin mà lãnh nhận. Điểm này cũng như tin tôn giáo, không có khác. Phật pháp không phải là tôn giáo mà cũng lại là tôn giáo, cho nên muốn giảng Phật Pháp trước hết phải tin là có Phật.

Phật là tiếng gọi tắt, gọi đủ là Phật Đà. Vì nghĩa từ Phật là giác giả, là trỏ vào người đã được giác ngộ một cách cao cả, đúng đắn, chính xác và rộng khắp nhất. Trong cõi này, người đã được chính biến giác cao cả nhất chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện thân thuyết pháp độ người, có giáo pháp  lưu truyền, để lại cõi đời. Nhưng ở đây lại không giống như các tôn giáo khác vì Ngài nói: Nếu người đời ai thực hành, thực chứng tới vô thượng chính biến giác thì người ấy cũng thành Phật. Vì vậy, người ta cuối cùng quyết bình đẳng.

2. Về Lý

Khi người ta chưa thành Phật mà muốn cầu thành Phật thì  trước hết phải tin nhân giáo pháp của Phật. Nhưng tin cũng không phải là tin một cách mù quáng. Bởi vì, người ta nếu tin có lý chân thật của các pháp trong pháp giới, thì phải giác ngộ chân lý ấy đến viên mãn, đó là chính giác cao cả nhất.

Phật ở trong chính giác cao cả nhất ấy, không một sát - na nào không phóng ra sự sáng suốt hiểu biết hoàn toàn trên, dưới, trong, ngoài. Không phải là trước hiểu biết thế nào mà sau  vẫn lại hiểu biết như thế ấy.

Tự giác của Phật đã đến địa vị viên mãn, thì không còn phải học thuyết, học lý, học tập, học tác gì nữa. Cho nên gọi là “vô học”.

Nhưng, Phật thì đã chứng vào cảnh giới giác ngộ như hư không, như gương Đại Viên (tròn lớn) soi khắp bao la, mà tất cả chúng sinh chưa chứng được vào tướng chân thật của vạn hữu trong pháp giới, bởi vì còn mê muội, điên đảo nên sinh ra rất nhiều phiền não đau khổ.

Phật rất thương xót cho nên phải đặt ra giáo pháp danh, cú, văn, thân để khiến cho chúng sinh giác ngộ.

Giáo pháp của Phật có hai phương diện:

Thứ nhất, hợp với chân lý, trong nhất niệm của Phật soi rõ khắp lý chân thật của vạn hữu trong pháp giới, luôn luôn hợp nhau, không hề có một mảy may sai lầm. Vì vậy nói các pháp đều hợp chân lý.

Thứ hai, hợp với căn cơ, người nghe phápcăn khí bậc nào, cơ cảm loại nào thì giải thuyết theo phương tiện ấy.

Hai phương diện tựa hồ như xung đột nhau, bởi vì tâm trí chúng sinh không bằng Phật, tuỳ thuận chúng sinh thì không hợp lý, nhưng tuỳ cơ thuyết pháp là lối khéo léo làm việc giáo hoá của Phật, lần lượt đều khiến thông đạt tới cảnh giới Phật, đều khiến tới cảnh giới Phật. Đó là giáo pháp đặt bày từ trong vô thượng chính biến giác, vô thượng lưu thông ra. Chỉ có loại thi thiết này là phải hệ thuộc cơ cảm mà có. Còn Phật với Phật thì không phải thế.

Giáo pháp được thi thiết lưu thông này, dựa vào vạn pháp duy thức mà nói, cũng có hai phương diện:

Thứ nhất, Danh, cú, văn, thân vô lậu thanh tịnh từ trong tâm Phật chính biến giác vô thượng lưu thông ra. Đó là cơ cảm từ chúng sinh trong tâm Phật mới lưu thông ra được, gọi là giáo lý bản chất hay nguyên chất.

Thứ hai, Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất, người ta không đích thân duyên trực tiếp được, chỉ dùng được tâm hữu lậu làm duyên tăng thượng, ở trong tâm mình sinh ra một loại ảnh tượng (bóng dáng), thế là giáo ảnh tượng. Đẩy giáo ảnh tượng này về với giáo bản chất thì trong Phật giáo được gọi là thánh giáo hay trí giáo. Pháp thường nghìn đời vẫn không biến đổi, khắp bốn bể cũng đều chuẩn cả, không có gì gọi là học cả.

Sở dĩ có sự học là vì ở Pháp lý thứ hai (Danh, cú, văn, thân từ nơi tha tâm Phật lưu xuất), về giáo lý có thể bàn được, nhưng phải dùng lời Phật làm duyên tăng thượng. Người nghe pháp đối với giáo pháp được nghe, ngẫm nghĩ, suy xét hiểu được rõ ràng thì có học lý về Phật pháp.

Phàm gọi là Kinh đều là Pháp Phật thuyết ra. Đời sau lại có người dựa vào giáo pháp của Phật mà bàn giải kỹ lưỡng mở rộng, thì được gọi là Luận. Học lý về Luận đã thành tinh vi, rõ ràng, chính xác, như các luận Đại Tỳ Ba Xa, Du Già Sư Địa,  v. v.  Xét về căn nguyên, những luận này đều có được từ giáo Pháp của Phật để lại.

3. Về Hành

Giáo Pháp của Phật vốn được xuất ra từ chính biến giác vô thượng. Vì vậy nên người ta muốn biết giáo lý Phật cũng cần phải biết được vô thượng chính biến giác. Nhưng làm thế nào mới chứng được thì lại phải cần phải giảng về phương pháp tu hành. Vậy nên việc tu hành là việc thứ ba cần giảng rõ. Trong việc tu hành có 3 tu học tăng thượng đó là Giới. Định, Tuệ. Tu Giới thế nào? Thiền định thế nào? Thế nào để đạt được Đại trí tuệ? (Tác giả đã trình bày trong tiểu luận “Phật học là Tuệ học”). Tu hành như thế thì mới có thể được vô thượng chính biến giác, tức là Quả Đại Bồ Đề, chứng nhậphiểu rõ ràng thật tướng các Pháp trong Pháp giới.

4. Về Quả

Thể loại thứ Tư gọi là quả. Đã được quả rồi  thì cũng có thể lấy đấy để khai thị, giác ngộ cho người sau.

Giáo lý “Hành Quả” cũng không phải cách biệt hẳn với nhau. Bởi vì, tư duy quan sát tức là hành, nhân tu hành mà lý càng rõ. Lý giải và tu hành cùng tiến như người đi đường, mặt và đế chân đồng thời cùng phát sinh tác dụng. Vả chăng, tuy ít rõ lý giải, chưa đạt quả vị cứu kính nhưng cũng đã thành hiệu quả. Tuy ít có hiệu quả, mà không cho là tự túc (tự mãn) thì cuối cùng vẫn có thể đạt tới chính biến giác.

Tư tưởng, trí thức của người thường đều không xa lìa Ngã chấp, Pháp chấp, nên họ bảo các loại học lý không tránh khỏi vọng tình, suy lường, phỏng đoán. Do vậy họ không thể nhận được chân lý rốt ráo.

Muốn cầu chân lý không thể không dựa vào Giáo pháp của Phật và Học lý của Cổ đức để làm căn cứ nghiên cứu.

Như vậy, học lý của Phật mà người tu học có được là nhờ học lý của thánh quả Tam thừa hữu học, vừa y vào thánh giáo, vừa y vào tự chứng để thành. Hơn nữa là vì học lý nội ngoại điển, phàm mới học đều phải dựa vào văn tự thánh giáo mà nên.

Phật học đại lược là như thế./.

Viên Minh Pháp tự, mạnh xuân Đinh Hợi, 2007 (Phật Tử Việt Nam)

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 126)
Trong Kinh Tạng Pali, có kể hai truyện về hai người cha thời Đức Phật. Qua hai truyện này, chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Chánh pháp.
(View: 325)
Mở đầu Bản “Giải thích Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi của Long Thọ”, ngài Nguyệt Xứng viết:
(View: 417)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(View: 413)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(View: 572)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(View: 575)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(View: 528)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(View: 601)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(View: 655)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(View: 542)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(View: 794)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(View: 847)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(View: 900)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(View: 896)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(View: 1151)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(View: 1519)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(View: 1192)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(View: 1425)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(View: 1561)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(View: 1648)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(View: 1809)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(View: 1597)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(View: 1351)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(View: 1602)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(View: 1471)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(View: 1691)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(View: 1593)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(View: 1964)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(View: 1600)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(View: 1626)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(View: 1830)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(View: 1443)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(View: 1623)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(View: 1640)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(View: 1778)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(View: 1294)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(View: 1805)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(View: 1263)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 1287)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 1162)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 1822)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 1528)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 1817)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 2005)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 2218)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 2397)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 2119)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 2012)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 1559)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 1550)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 1394)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 1348)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 2495)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 2139)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 2063)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 1902)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 1835)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 1785)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 2379)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM