Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Niết Bàn (song ngữ)

Friday, March 11, 201612:10(View: 8950)
Niết Bàn (song ngữ)

NIẾT BÀN

Barbara O'Brien
Nguyễn Văn Tiến

Niết Bàn (song ngữ)


Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên". Niết Bàn cũng là tên của một ban nhạc chơi nhạc-grunge nổi tiếng của Hoa Kỳ, cũng như là tên của nhiều sản phẩm tiêu-thụ, từ nước đóng chai, đến nước hoa. Nhưng Niết Bàn thật sự là gì? Và Niết Bàn đóng vai trò gì trong Đạo Phật?

Trong ý nghĩa tâm linh, niết bàn (hay nibbana trong tiếng Pali) là một từ ngữ tiếng Phạn cổ-xưa có nghĩa là "dập tắt", với nghĩa rộng là "dập tắt ngọn lửa". Nhiều người Tây Phương đã nghĩ theo nghĩa đen của từ ngữ nầy, nên họ cho rằng mục đích của đạo Phật là chùi-sạch chính mình. Nhưng Đạo Phật, hoặc niết-bàn, không phải chỉ là như thế.

SỰ GIẢI THOÁT, CHỨ KHÔNG PHẢI SỰ LAU-CHÙI-CHO-SẠCH:

Người thời xưa coi lửa là một yếu tố, một trong những hình thức cơ bản nhất của vật-chất có thể mang-đi được. Trong văn hóa của Ấn Độ vào thời Đức Phật, lửa được xem là tương đương với không-khí, hoặc một cái gì đó giống như chất ê-te (ether).

Chúng ta nên hiểu rằng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy yếu tố lửa, như là ngọn-lửa nếu lửa được tiếp nối với một loại nhiên liệu nào đó.

Khi lửa được tiếp cận với nguồn nhiên liệu, lửa trở nên nóng và bùng lên, và chúng ta nhìn thấy ngọn lửa. Khi lửa được tách rời ra khỏi nhiên liệu, lửa chuyển sang một trạng thái khác. Mặc dù lúc nầy, con người không nhìn thấy lửa, lửa vẫn có sự tồn tại, trầm tĩnh, và bình thản.

Tất nhiên, đấy không phải là những gì chúng ta hiểu về lửa, ngày hôm nay. Tuy nhiên, sự hiểu biết nầy đã giải thích lý do tại sao Đức Phật đã dùng từ ngữ niết-bàn với ý nghĩa là "giải thoát", hoặc là "cởi sợi giây trói ra."

Cho nên, niết-bàn là sự giải thoát, tuy nhiên, giải thoát từ cái gì? Câu trả lời thông thường là "vòng luân-hồi," mà thường được định nghĩa là chu kỳ sinh ra, rồi mất đi, rồi tái-sinh. (xin lưu ý rằng "tái sinh" (từ thần-thức) không có nghĩa là "đầu thai" (từ linh-hồn), như một số người hiểu lầm.) Niết Bàn cũng được xem là giải thoát khỏi sự đau khổ, hoặc sự căng thẳng / sự đau đớn / sự không hài lòng trong cuộc sống.

Sau khi Đức Phật giác ngộ, trong bài giảng đầu tiên của ngài, Đức Phật đã giảng về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế). Bốn Sự Thật nầy căn bảngiải thích tại sao cuộc sống căng thẳng, và làm cho chúng ta thất vọng, và tại sao chúng ta bị mắc kẹt, và phải vật lộn với cuộc sống, giống y như là ngọn lửa không tách ra khỏi được nguồn nhiên liệu. Đức Phật cũng cho chúng ta phương thuốc chữa bệnh, và con đường giải thoát chính là Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo).

Đạo Phật, thật ra, không phải là một hệ thống về niềm tin, mà Đạo Phật chính là sự thực hành, để cho phép chúng ta buông xả sự dính mắc, và ngừng lại sự đấu tranh trong tâm chúng ta.

NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT NƠI CHỐN:   

Vì thế, một khi tâm chúng ta được giải thoát, điều gì sẽ xảy ra kế tiếp? Các pháp môn của Đạo Phật diễn-dịch niết-bàn theo một lối khác nhau, tuy nhiên, họ thường đồng ý rằng niết-bàn không phải là một nơi chốn. Mà niết-bàn là một trạng thái của tâm. Tuy nhiên, Đức Phật cũng có nói rằng, bất cứ điều gì chúng ta có-thể nói hoặc tưởng-tượng về niết-bàn đều sai-lầm, bởi vì niết-bàn hoàn-toàn khác-biệt với cõi người của chúng ta. Vì lý do nầy, niết-bàn không có định-nghĩa, bởi vì ngôn ngữ không đủ để diễn tả niết-bàn. Niết Bàn vượt ra ngoài không-gian, thời-gian, và định-nghĩa.

Nhiều kinh điển, và các lời bình luận nói về đi-vào (nhập) niết-bàn, tuy nhiên, nói cho đúng, niết-bàn không-thể đi-vào giống như chúng ta đi-vào một căn-phòng, hoặc là chúng ta có-thể tưởng-tượng là đi-vào thiên-đường.

Học-giả, và cũng là nhà-sư theo Phật-Giáo Nguyên-Thủy Thanissaro Bhikkhu nói rằng, "... vòng luân-hồi, cũng như niết-bàn không phải là một nơi chốn. Vòng luân-hồi là quá-trình tạo ra các nơi-chốn, thậm-chí toàn-bộ thế-giới, (điều nầy được gọi là  sự trở-thành), và rồi chúng ta đi lang-thang qua các nơi-chốn nầy (điều nầy được gọi là sự sinh ra). Niết Bàn là sự chấm-dứt của quá-trình nầy."

Chúng ta đôi khi bị mắc-kẹt vì xử-dụng từ-ngữ "đi vào" (nhập niết-bàn), tuy nhiên, bởi vì Anh Ngữ chưa có từ-ngữ nào để nói cho đúng-đắn về ý-nghĩa nầy của niết-bàn. 

Tất nhiên, có nhiều thế hệ Phật Tử đã tưởng-tượng niết-bàn là một nơi-chốn, bởi vì họ không-thể tưởng-tượng khác hơn thế. Vì thế, chúng ta có thể sẽ gặp những người Phật Tử đã có sự suy-nghĩ như thế. Cũng có những vị lớn tuổi tin-tưởng rằng một người phải được sinh ra là một người đàn-ông mới có thể vào niết-bàn được. Đức Phật lịch-sử chẳng bao giờ nói như thế, tuy nhiên, niềm tin của các người nầy phản ảnh từ một số kinh-điển Đại-Thừa. Tuy nhiên, Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti) đã hoàn-toàn không chấp-nhận khái-niệm nầy.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO NGUYÊN-THỦY:

Phật Giáo Nguyên Thủy diễn tả hai loại niết-bàn (nirvana) - hoặc là nibbana, vì các vị theo Phật Giáo Nguyên Thủy thường dùng tiếng Pali.

Loại đầu tiên là "niết-bàn có phần-còn-dư" (hoặc là hữu-dư niết-bàn). Loại nầy được so sánh với những mảnh-vụn than-củi hãy còn cháy sau khi dập-tắt ngọn lửa, và điều nầy diễn-tả một người đã giác-ngộ, hoặc là một vị A La Hán. Vị A La Hán hãy còn nhận biết sự vui-thú, và sự đau-đớn, tuy nhiên ông ta (hoặc bà ta) không còn bị trói buộc bởi các điều nầy.

Loại thứ nhì là đại-niết-bàn, đó là niết-bàn sau-cùng, hoặc là niết-bàn hoàn-toàn (niết-bàn không có phần-còn-dư, hoặc vô-dư niết-bàn), đó là "đã đi-vào" niết-bàn, sau khi chết. Bấy giờ, những mảnh-vụn than-củi thì đã nguội-mát. Đức Phật đã dạy rằng, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái có-mặt thì không đúng, bởi vì khi nói có-mặt có nghĩa là bị giới-hạn bởi thời-gian và không-gian, thế nên, nếu nói niết-bàn là một trạng-thái không-có-mặt cũng không đúng.

NIẾT BÀN THEO PHẬT-GIÁO ĐẠI-THỪA:

Một trong những đặc-điểm khác-biệt của Phật Giáo Đại Thừa là hạnh-nguyện Bồ Tát. Phật Tử theo Đại Thừa là nguyện ở lại cõi người (thế giới hiện tượng), và phấn đấu để đưa mọi chúng sanh đến giác ngộ. Điều nầy không-phải chỉ thực-hiện trong ý-nghĩa của lòng vị-tha, mà còn qua sự hiểu biết là họ không có cách nào khác. Trong ít nhất một số trường phái Đại Thừa, họ nghĩ rằng tất cả mọi vật đều cùng-nhau tồn-tại, "một-người" đạt niết-bàn thì không-có ý-nghĩa gì cả.

Phật Giáo Đại Thừa cũng dạy rằng luân-hồi, và niết-bàn không thật-sự riêng-biệt. Một người nhận-biết, hoặc cảm-nhận tánh-không của mọi hiện-tượng sẽ nhận ra rằng niết-bàn, và luân-hồi không đối-chọi nhau, thay vào đó, cả hai cùng hòa-nhập với nhau. Niết Bàn chính là bản-chất thật-sự tinh-khiết của luân-hồi. 

Source-Nguồn: http://buddhism.about.com/od/Existence/fl/Nirvana.htm


 NIRVANA

Barbara O'Brien

Nirvana is everywhere, at least for English speakers. The word has been adopted into English to mean "bliss" or "tranquility." Nirvana also is the name of a famous American grunge band, as well as of many consumer products, from bottled water to perfume. But what is it, really? And how does it fit into Buddhism?

In the spiritual sense, nirvana (or nibbana in Pali) is an ancient Sanskrit word that means something like "to extinguish," with the connotation of extinguishing a flame. This more literal meaning has caused many westerners to assume that the goal of Buddhism is to obliterate oneself. But that's not at all what Buddhism, or nirvana, is about.

LIBERATION, NOT OBLITERATION

The ancients considered fire to be an element, one of the most basic forms matter could take. In the culture of India at the time of the Buddha, fire was thought to be equivalent to air, or something like aether (but not exactly).

It was understood that we can see the element of fire as flames only when fire is stuck to some kind of fuel.

When fire is trapped by fuel it becomes hot and agitated, and flames are visible. When the fire is separated from fuel it passes into a different state. Although the fire is no longer visible to humans, it still permeates existence, coolly and serenely.

That is not at all how we understand fire today, of course. However, this understanding does explain why the Buddha used the word nirvana to mean "liberation" or "unbinding."

So nirvana is liberation, but liberation from what? The standard answer is "samsara," which usually is defined as the cycle of birth, death, and rebirth. (Note that "rebirth" is not necessarily reincarnation as you might understand it.) Nirvana is also said to be liberation from dukkha, or the stress / pain / dissatisfaction of life.

In his first sermon after his enlightenment, the Buddha preached the Four Noble Truths. Very basically, the Truths explain why life stresses and disappoints us, and why we are stuck and struggling like a flame stuck to fuel. The Buddha also gave us the remedy, and the path to liberation, which is the Eightfold Path.

Buddhism, then, is not so much a belief system as it is a practice that enables us to stop sticking and struggling.

NIRVANA IS NOT A PLACE

So, once we're liberated, what happens next? The various schools of Buddhism understand nirvana in different ways, but they generally agree that nirvana is not a place. It is more like a state of existence. However, the Buddha also said that anything we might say or imagine about nirvana will be wrong, because it is utterly different from our ordinary existence. For this reason, it also defies definition, because language is inadequate to define it. Nirvana is beyond space, time, and definition.

Many scriptures and commentaries speak of entering nirvana, but (strictly speaking), nirvana cannot be entered in the same way we enter a room, or the way we might imagine entering heaven.

The Theravadin scholar Thanissaro Bhikkhu said, "... neither samsara nor nirvana is a place. Samsara is a process of creating places, even whole worlds, (this is called becoming) and then wandering through them (this is called birth). Nirvana is the end of this process."

We do sometimes get stuck using words like "enter," however, because English vocabulary hasn't developed words that properly relate to nirvana.

Of course, many generations of Buddhist have imagined nirvana to be a place, because they couldn't imagine it as not a place. So you may run into Buddhists with that understanding. There is also an old folk belief that one must be reborn as a man to enter nirvana. The historical Buddha never said any such thing, but the folk belief came to be reflected in some of the Mahayana sutras. This notion was very emphatically rejected in the Vimalakirti Sutra, however.

NIBBANA IN THERAVADA BUDDHISM

Theravada Buddhism describes two kinds of nirvana - or nibbana, as Theravadins usually use the Pali word.

The first is "nibbana with remainders." This is compared to the embers that remain warm after flames have been extinguished, and it describes a living enlightened being, or arahant. The arahant is still conscious of pleasure and pain, but he or she is no longer bound to them.

The second type is parinibbana, which is final or complete nibbana that is "entered" at death. Now the embers are cool. The Buddha taught that this state is neither existence - because that which can be said to exist is limited in time and space - nor non-existence.

NIRVANA IN MAHAYANA BUDDHISM

One of the distinguishing characteristics of Mahayana Buddhism is the bodhisattva vow. Mahayana Buddhists vow to remain in the phenomenal world and strive to bring all beings to enlightenment. This is not done just a in sense of altruism, but with the understanding that it cannot be otherwise.  In at least some schools of Mahayana, because everything inter-exists, "individual" nirvana is nonsensical.

Mahayana Buddhism also teachings that samsara and nirvana are not really separate. A being who has realized or perceived the emptiness of phenomena will realize that nirvana and samsara are not opposites, but instead completely pervade each other. Nirvana is the purified, true nature of samsara.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 67)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 114)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 108)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 201)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 158)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 188)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 203)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 252)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 535)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 459)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 427)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 424)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 385)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 345)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 444)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 655)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 470)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 453)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 620)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 705)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 504)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 590)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 768)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 763)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 816)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 685)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1009)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 830)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 794)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 771)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 885)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 785)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1224)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 831)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 856)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 950)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1126)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 953)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 847)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 923)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 891)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 989)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1133)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1211)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 895)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 997)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1094)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1358)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1058)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1150)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1362)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1216)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1196)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1370)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1514)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1833)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1656)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1557)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM