Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm

Friday, April 8, 201614:53(View: 7568)
Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm

Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm

Nguyên Giác

Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm

Mở bất kỳ Kinh Nhật Tụng nào trong các chùa Bắc Tông, chúng ta đều thấy có các nghi thức cầu an, cầu siêu. Nhiều người nghĩ rằng các pháp đều có nhân quả, phải tự mình mình tu, chớ nên cầu xin bất kỳ ai, vì có ai cho phước mình đâu. Về lý luận, nói như thế có phần tích cực là khuyến tu, nhưng Kinh Phật sơ thời cũng vẫn có các lời dạy cầu an, cầu siêu – tuy là nhiều dị biệt với thời chúng ta.

Lời dạy cầu an trong Kinh Tạng Pali có rất nhiều. Nổi bật nhất là trường hợp ngài Angulimala, khi ngài chú nguyện để cứu một thai phụ gặp sản nạn, và rồi mẹ tròn con vuông.

Lời dạy cầu siêu rất hiếm gặp, cực kỳ khó gặp. Khó gặp tới nỗi hầu hết quý thầy Nam Tông không tin rằng có một thân trung ấm nào, vì khi Đức Phật dạy về ba cõi (tam giới) không thấy nơi nào phù hợp cho thân này, nếu gọi là “thân” trung ấm, và do vậy nhiều thầy tin rằng tái sanh là tức khắc, y hệt lửa từ ngọn đuốc này chuyền sang ngọn đuốc kia.

Sự thực, Đức Phật dạy có thân trung ấm, nhưng Ngài không gọi là “thân.” Và sự thực, Đức Phật có dạy cách cầu nguyện cho thân trung ấm. Để hiểu đơn giản, thân trung ấm được định nghĩa là khi sự sống lìa thân này và chưa thọ thân sau.

Trong bài viết “Kinh Đắc Quả Khi Từ Trần Và Kinh Tái Sinh Như Lửa Theo Gió” (1), chúng ta đã trả lời hai câu hỏi: Đức Phật có dạy về thân trung ấm không, và thân này nuôi dưỡng bằng nhiên liệu gì?

Lời đáp là: Đức Phật dạy có thân trung ấm, nhiên liệu nuôi thân này là tham ái.

Bài viết hôm nay sẽ tìm cách trà lời các câu hỏi: Đức Phật có dạy cầu nguyện cho thân trung ấm không, và cầu nguyện thế nào?

**

Chỗ này nên cẩn trọng: Đức Phật dạy giáo pháp vô ngã, do vậy không nên hiểu rằng có một “cái tôi” nào đi từ kiếp trước sang kiếp sau.

Trong Bắc Tông, chữ “thân trung ấm” là gọi cho dễ hiểu, nhưng thường khi gọi là thần thức, nghiệp thức, giác linh, hương linh… Tất cả các cách gọi đó đều chỉ về một phương diện của thân trung ấm.

Thường nhất, Đức Phật gọi các chúng sinh khi lìa thân này và chưa thọ sanh ở thân sau là “thức” (consciousness) –môi trường tái sanh gọi là“nghiệp”(kamma)…

Kinh MN 38 - Mahatanhasankhaya Sutta viết: “Kamma is the field, consciousness the seed, and craving the moisture…” (Nghiệp là cánh đồng, thức là hạt giống, và tham ái là nước tưới…).

Có lẽ, cũng là tùy cơ, nói từng phương diện. Lời dạy của Đức Phật thâm sâu, và thường khi ban pháp là gắn liền với trình độ tu chứng của từng vị tỳ kheo nghe pháp.Sở học của người viết bất toàn, nên nơi đây chỉ có thể đưa ra các lời giải đoán, chủ yếu dựa vào kinh.

Giải thích thế nào về thức này? Hẳn nhiên không phải là một “cái tôi” vì thức phải biến chuyển theo luật vô thường và cũng biến chuyển theo nhiên liệu nuôi thân trung ấmtham ái.

Trong Kinh Mahanidana Sutta, bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi, nơi đoạn 21,  Đức Phật có đoạn vấn đáp với Ngài Anan về thức thọ sanh này – tuy không nói là giữa hai thân, nhưng nói rõ là có thức đang  tìm nơi thọ sanh, có thể bị gián đoạn và phải tìm nơi thọ sanh khác (nghĩa là hành trình sẽ cực kỳ gian nan, nếu chúng ta không lo tu học):

“If consciousness were not to descend into the mother’s womb, would mentality-materiality take shape in the womb?”

“Certainly not, venerable sir.”

“If, after descending into the womb, consciousness were to depart, would mentality-materiality be generated into this present state of being?”

“Certainly not, venerable sir.”

DỊCH:

“Nếu thức không vào bụng mẹ, danh-sắc có hình thành trong bụng mẹ không?”

“Bạch Thế Tôn, chắc chắn là không.”

“Nếu, sau khi vào bụng mẹ, thức phải ra đi, danh-sắc có sẽ trở thành như chúng sinh hiện nay không?”

“Bạch Thế Tôn, chắc chắn không.”

Tương tự bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi là bản của Thanissaro Bhikkhu. Links cả hai bản ở ghi chú (2).

**

Tới đây, chúng ta có thể hỏi, rằng thức tìm nơi thọ sanh có khác gì với các khái niệm về thức như chúng ta thường đọc?

Hình như không khác nhiều, nếu chúng ta tránh sử dụng chữ “thân” khi gọi về lực sống này.

Bời vì trong Kinh DN 28, Ngài Sariputta gọi đó là “the unbroken stream of human consciousness as established both in this world and in the next…” (dòng tương tục ý thức không gián đoạn của con người khi được thiết lập trong kiếp này và kiếp sau).

Dĩ nhiên, ngay cả khi gọi là ý thức, chúng ta trong 24 giờ/ngày vẫn có thể mê muội tới 23 giờ (thậm chí, mê cả 24 giờ). Ngay cả khi Đức Phật đã dạy trong Kinh SN 35.23 và Kinh SN 35.82 – xem bản dịch 2 kinh này ở ghi chú(3)-- rằng toàn bộ thế giới chỉ là tâm-cảnh bất nhị (cũng hiểu là thức, khi nói về dụng), nghĩa của thức này hẳn là khác với “thức đang tìm nơi thọ sanh” – tức là khác với “thức giữa đời này và đời sau”? Trùng trùng nghi vấn vậy.

Trong tác phẩm biên khảo “Giới Thiệu Đại Cương Về Duy Thức Học” của Ni sư Tuệ Hạnh, có đoạn viết:

“…Vasubandhu viết Nhị thập tụng và tự viết thêm phần chú giải, trong khi Tam thập tụng thì có phần chú giải của Sthiramati (An Huệ). Theo hai bản luận căn bản của Duy thức tông này, thì tất cả mọi hiện tượng đều là sự biến hiện của thức trong hành vihoạt động nội tại của chúng; những nhận thức của chúng ta không phải là do từ đối tượng ngoại tại tạo thành, những đối tượng mà ta tưởng là hiện hữu bên ngoài và tạo thành ý nghĩ của chúng ta. Cũng giống như trong giấc mộng, chúng ta có những kinh nghiệm về thiên hình vạn trạng, người ta, cảnh vật, thời điểm, cảm giác, v.v..., tất cả đều y như thật trong giấc mộng đó. Đến khi tỉnh giấc, ta còn vẫn còn có những cảm giác như thật khi tiếp xúcphản ứng với những gì trong mộng. Ấy thế mà khi tỉnh giấc, thì chẳng có gì. Cũng vậy, tất cả các đối tượng ngoại tại chẳng qua chỉ là do thức hiện khởi mà thôi…” (4)

Kể như Duy Thức nhiều phần tương tự với Kinh SN 35.23 và Kinh SN 35.82. Trong khi đó Bát Nhã Tâm Kinh, tức bản kinh cô đọng của Trung Luận, so sánh hình ảnh thực tướng như giấc mộng qua câu “viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.”

Đức Phật cũng so sánh các pháp hữu vi với giấc mộng, như trong Kinh Pháp Cú Kệ 170, nói rằng các pháp như bọt nước, như cảnh huyễn, “Như mộng, huyễn, bọt, bóng,Như sương cũng như điện…”

Tuy các pháp là mộng như thế, yêu cầu giải thoát vẫn luôn luôn là khẩn thiết.

**

Nơi đây, xin kể hai kỷ niệm. Bản thân người viết không hiểu mọi chuyện, nghe sao, thấy sao kể vậy thôi.

Nhiều thập niên trước, một lần bổn sư Thích Tịch Chiếu kể với người viết rằng, dân chúng quanh Chùa Tây Tạng Bình Dương nghèo, lúc đó cũng là mới vài năm sau 1975, nên khi dân chúng thỉnh sư tới làm tang lễ, lo sợ là nếu nhiều thầy tới, e tang gia không có đủ lễ  cúng dường. Thầy biết thế, nhưng giải thích với người viết là có khi phải cử nhiều vị tăng có nhiều oai đức đi, không phải chuyện gì khác hết, nhưng chỉ vì muốn dùng oai đức đó để giúp hương linh siêu thăng.

Thực sự, người viết không hiểu, không được giải thích thêm, và cũng không biết gì về nghi thức tang lễ, vì bản thân chỉ được Thầy dạy về pháp “Không có gì để tu hết” của Thiền Tông. (5)

Kỷ niệm thứ nhì là khi ngài Geshe Tsultim Gyeltsen trước khi viên tịch, dặn đồ chúng trong Chùa Thubten Dhargye Ling, ở Long Beach, California,hãy chờ vài ngày, sẽ có hiện tượng lạ rồi mới làm tang lễ. Nghĩa là, tuy đã chết nhưng vẫn còn trong thiền định nhiều ngày, còn hơi ấm. Bản thân người viết lúc đó là phóng viên, có tình thân với nhiều vị trong ngôi Chùa Tây Tạng này, đã quan sát tận tường nhiều ngày, cho tới khi có hiện tượng cầu vồng xuất hiện quanh chùa này, và bao phủ một vùng xa lộ I-405, cầu vồng sáng khoảng nửa giờ hay một tiếng, thân của ngài mới bắt đầu cứng lại, nghĩa là (được giải thích) là ngài kết thúc thiền định. Lúc đó, nhục thân ngài được đóng quan tài kẽm để chở phi cơ sang Bắc Ấn Độ để làm nghi thức hỏa thiêu, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thực hiện vì nhiều năm trước đó, ngài từng giữ chức tương đương với Bộ Trưởng Ngoại Giao cho Đức Đạt Lai Lạt Ma (so sánh kiểu chức vụ thế gian). Vài năm sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận một cậu bé sinh ở hải ngoại (ngoài Hoa Lục) là thân sau của ngài, và đã đón cậu bé này về Dharamsala để cho học đạo. Có nghĩa là, vị cao tăng Geshe Tsultim Gyeltsen đã có nhiều ngày trong thân trung ấm?

Chỉ xin kể vậy thôi. Bản thân người viết không giải thích gì được.

**

Tới đây, chúng ta nói về Kinh Karaniya Metta Sutta (Sn 1.8 PTS: Sn 143-152). Trong kinh này, Đức Phật có dạy là hãy cầu nguyện cho thân trung ấm. Nơi đây, chúng ta sẽ trích nhiều bản Anh dịch để đối chiếu.

Duyên khởi của Kinh này được kể là, trong khi Đức Phật cư trú ở thành Xá Vệ, một nhóm các tỳ kheo trước đó đã nhận được nhiều đề tài thiền định từ ngài, tới một cánh rừng để nhập hạ. Các vị thần cây cư trú trong rừng này lo ngại khi thấy chư tăng tới, vì chư thần phải từ trên cây xuống và ở trên mặt đất. Dù vậy, chư thần hy vọng chư tăng sẽ ra đi sớm, nhưng khi biết chư tăng sẽ ở tới ba tháng, nên mới quấy nhiễu chư tăng bằng nhiều cách suốt cả đêm, nhằm làm quý thầy phải bỏ đi.

Thấy hoàn cảnh bất khả như thế, quý thầy tới gặp Đức Phật, trình bày về khó khăn như thế. Đức Phật mới dạy Kinh Từ Bi (Metta Sutta), và khuyên chư tăng hãy về lại cánh rừng cũ với kinh này sẽ bảo vệ.

Chư tăng trở lại cánh rừng, thực tập lời Đức Phật dạy, rải tâm từ chói sáng. Chư thần cảm phụcsức mạnh tâm từ, mới để quý thầy bình an tu học. Kinh này chia làm hai phần. Phần đầu nói về yêu cầu tu tập về giới và định, phần thứ nhì nói về pháp Tâm Từ. Kinh này là vừa cầu an, vừa cầu siêu.

Sau đây là toàn văn bản Anh dịch của Acharya Buddharakkhita; trong khi bản Việt dịch tham khảo nhiều bản Anh dịch khác:

.

Who seeks to promote his welfare,

Having glimpsed the state of perfect peace,

Should be able, honest and upright,

Gentle in speech, meek and not proud.

Những người muốn tự lợi mình

đã từng nhìn thấy lóe lên cõi tịch lặng

hãy có năng lực, lương thiệncương trực

lời nói dịu dàng, khiêm tốn và không ngã mạn.

.

Contented, he ought to be easy to support,

Not over-busy, and simple in living.

Tranquil his senses, let him be prudent,

And not brazen, nor fawning on families.

Hài lòng, vị này không có gì cần nhiều

không quá bận rộn, và sống đơn giản.

giữ các căn tịch lặng, vị này khéo léo

biết hổ thẹn, không bận tâm chuyện có nhiều Phật tử ủng hộ

 

Also, he must refrain from any action

That gives the wise reason to reprove him.

(Then let him cultivate the thought:)

May all be well and secure,

May all beings be happy!

Thêm nữa, vị này phải tránh bất kỳ hành vi nào

khiến các bậc trí giả phải khiển trách

(Rồi, vị này hãy giữ các niệm sau đây:)

Nguyện cho tất cả đều được an lành,

Nguyện cho tất cả chúng sinh hạnh phúc!

.

Whatever living creatures there be,

Without exception, weak or strong,

Long, huge or middle-sized,

Or short, minute or bulky,

Bất cứ chúng sinh nào hiện hữu

không loại trừ, yếu hay mạnh,

dài, khổng lồ hay cỡ trung,

hay ngắn, nhỏ hay kềnh càng,

.

Whether visible or invisible,

And those living far or near,

The born and those seeking birth,

May all beings be happy!

Cho dù hữu hình hay vô hình,

và cả những chúng sinh sống xa hay gần,

đã sinh ra và cả những [trung ấm] đang tìm nơi thọ sanh,

Nguyện tất cả các chúng sinh đều hạnh phúc!

.

Let none deceive or decry

His fellow anywhere;

Let none wish others harm

In resentment or in hate.

Nguyện cho không ai lừa gạt ai,

không ai nguyền rủa ai ở bất cứ nơi nào;

Nguyện không ai ước điều nguy hại cho ai

dù trong cay đắng hay trong căm ghét.

.

Just as with her own life

A mother shields from hurt

Her own son, her only child,

Let all-embracing thoughts

For all beings be yours.

Cũng như với chính sinh mạng của mình

bà mẹ ngăn che tổn thương cho

chính con trai của bà, đứa con duy nhất của bà,

Hãy khởi tâm từ vô lượng này

tới tất cả chúng sinh [như mẹ lo cho con].

 

Cultivate an all-embracing mind of love

For all throughout the universe,

In all its height, depth and breadth —

Love that is untroubled

And beyond hatred or enmity.

Hãy tu dưỡng tâm yêu thương vô lượng này

đối với tất cả chúng sinh khắp vũ trụ các cõi

trên cao, dưới thấp và chặng giữa --

Hướng tâm từ này cho tất cả đều an lành

vượt qua mọi thù nghịch, giận dữ.

As you stand, walk, sit or lie,

So long as you are awake,

Pursue this awareness with your might:

It is deemed the Divine State here.

Khi đứng, đi, ngồi hay nằm

hễ bất cứ khi nào tỉnh thức

hãy ra sức gìn giữ tâm từ này

vì là nơi của Đời sống Cao quý nơi đây.

 

Holding no more to wrong beliefs,

With virtue and vision of the ultimate,

And having overcome all sensual desire,

Never in a womb is one born again.

Không rơi vào tà kiến

với giới hạnh và cái nhìn trí huệ tận cùng

vượt qua mọi tham dục

sẽ không bao giờ thọ sanh nữa. (Hết bản Việt dịch)

**

Ghi nhận, tất cả các bản dịch đều có câu nguyện hạnh phúc cho “những vị đang tìm nơi thọ sanh” như nhau.

Bản Anh dịch của Acharya Buddharakkhita ghi trên nói về thân trung ấm là:

The born and those seeking birth,

May all beings be happy!

(Những vị đã sinh ra và những vị đang tìm nơi thọ sanh

Xin nguyện cho tất cả chúng sinh đều hạnh phúc!

.

Bản của Ñanamoli Thera là:

Existing or yet seeking to exist.

May creatures all be of a blissful heart.

.

Bản của Piyadassi Thera:

those who are born as well as those yet to

be born — may all beings have happy minds.

.

Bản của The Amaravati Sangha:

Those born and to-be-born —

May all beings be at ease!

.

Bản của Thanissaro Bhikkhu:

born & seeking birth:

May all beings be happy at heart.

.

Bản của Anandajoti:

those who are born, and those who still seek birth

—may all beings in their hearts be happy!”

 

Links của các bản này ở ghi chú (6).

Như thế, Đức Phật có dạy cầu nguyện cho những hương linh đang tìm nơi thọ sanh, nói theo ngữ cảnh quen thuộc của chúng ta, là cầu siêu cho thân trung ấm.

.

GHI CHÚ:

(1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a24987/kinh-dac-qua-khi-tu-tran-va-kinh-tai-sinh-nhu-lua-theo-gio

(2) Bản của Bhikkhu Bodhi: http://www.bps.lk/olib/mi/mi018-p.html

Bản của Thanissaro Bhikkhu: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/dn/dn.15.0.than.html

(3) Xem: http://thuvienhoasen.org/a24741/duc-phat-day-phap-thay-tanh

(4) Xem: http://thuvienhoasen.org/a7211/dai-cuong-ve-duy-thuc-hoc

(5)Thiền Sư Nhẫn Tế 80 Năm Kỷ Niệm Tây Du Phật Quốc, trang 91-93:http://thuvienhoasen.org/images/file/MTemVP6V0ggQAPE8/80-nam-tay-du-ky-phat-quoc.pdf

(6)Bản của Acharya Buddharakkhita:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.budd.html

Bản của Ñanamoli Thera:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.nymo.html

Bản của Piyadassi Thera:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.piya.html

Bản của The Amaravati Sangha:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.amar.html

Bản của Thanissaro Bhikkhu:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.than.html

Bản của Anandajoti:

https://suttacentral.net/en/kp9

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 31)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(View: 51)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(View: 60)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(View: 293)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(View: 66)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(View: 140)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(View: 172)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 129)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(View: 203)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(View: 191)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(View: 352)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(View: 260)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(View: 244)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(View: 228)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(View: 337)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(View: 383)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(View: 290)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(View: 270)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(View: 296)
Tư tưởng nhân quả Phật giáo là tư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(View: 304)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(View: 337)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(View: 307)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(View: 345)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(View: 359)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(View: 401)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(View: 449)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(View: 438)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(View: 580)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(View: 422)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(View: 401)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(View: 366)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(View: 505)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(View: 435)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(View: 339)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(View: 358)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(View: 339)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(View: 327)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(View: 520)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(View: 314)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(View: 346)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(View: 297)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(View: 458)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(View: 418)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(View: 367)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(View: 404)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(View: 389)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(View: 392)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(View: 424)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(View: 432)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(View: 412)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
azipos-point-of-sale-300x300
Thầy THÍCH PHÁP HÒA sẽ có buổi thuyết pháp tại chùa Bảo Quang vào thứ bẩy ngày 22 tháng 4 năm 2023, lúc 2 giờ chiều