Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý Nghĩa Của Ngón Tay Chỉ Mặt Trăng (song Ngữ)

10 Tháng Tư 201609:25(Xem: 9386)
Ý Nghĩa Của Ngón Tay Chỉ Mặt Trăng (song Ngữ)

Ý NGHĨA CỦA NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG 

Myrko Thum - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến 

Source-Nguồn: www.awakeblogger.com
(The Meaning Of The Finger Pointing To The Moon - Myrko Thum)

Ý Nghĩa Của Ngón Tay Chỉ Mặt Trăng (song Ngữ)

 

Sư Cô Wu Jincang hỏi Lục Tổ Huệ Năng (Huineng), "Con đã nghiên cứu Kinh Đại Bát Niết Bàn trong nhiều năm, tuy nhiên, có nhiều lãnh vực con vẫn chưa hiểu hoàn toàn. Xin Thầy hãy soi sáng cho con."

Lục Tổ trả lời, "Thầy không biết đọc chữ. Con hãy đọc bài kinh đó cho Thầy nghe, và nếu may mắn, Thầy có thể giải thích ý nghĩa bài kinh cho con hiểu."

Sư cô trả lời, "Thầy còn không biết đánh vần, thế thì, Thầy làm sao hiểu được ý nghĩa của bài kinh?"

"Sự thật không liên hệ gì đến các từ ngữ. Sự thật giống như là mặt trăng chiếu sáng trên bầu trời. Trong trường hợp nầy, các từ ngữ được xem như là ngón tay. Ngón tay có thể chỉ vào vị trí của mặt trăng. Tuy nhiên, ngón tay không phải là mặt trăng. Khi con muốn nhìn thấy mặt trăng, con cần phải nhìn xa hơn là ngón tay, có đúng không?"

Điểm quan trọng ở đây là mặt trăng thì không phải là ngón-tay chỉ-mặt-trăng. Ở mức độ sâu sắc hơn, điều nầy có nghĩa gì? Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta áp dụng điều nầy như thế nào? Để có ích lợi, chúng ta nên hiểu điều nầy có ý nghĩa như thế nào?

Thiền Sư Bố Đại (Hotei), còn gọi là ông Phật Cười, ngài chỉ ngón tay vào mặt trăng, là nhà sư sống trong Triều Đại Nhà Hậu Lương (Liang, 907-923 AD) của Trung Quốc. Thiền Sư Bố Đại có gương mặt vui vẻ và bụng bự, tượng trưng cho niềm hạnh phúc và sự an lạc.

KHÔNG-CÓ Ý-NGHĨA GÌ CẢ KHI CHÚNG TA GIẢI THÍCH VỀ NGÓN-TAY:

... Eckhart Tolle nói rằng, chúng ta có khuynh hướng giải thích về các ngón-tay, mà chúng ta không tự nhận-biết. Khi chúng ta thảo-luận về một điều gì đó, trong một buổi tranh-luận về triết-lý, dù cho điều nầy tốt hoặc là không-tốt cho chúng ta, (nên nhớ rằng) chúng ta đang thảo-luận về sự hợp-lý của các mô-hình và các khái-niệm. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể đi trực-tiếp đến nơi đó, để sống và có  kinh-nghiệm qua các cảm-nhận trực-tiếp.

Trong sự hiểu-biết về tâm-linh, điều nầy cũng như thế.

Tâm-linh là sự hiểu-biết qua kinh-nghiệm, và đây chính là sự thật. Vì vậy, theo ý nghĩa đó, bài viết nầy là ngón-tay chỉ mặt-trăng (chứ không phải là mặt trăng). Mục đích của từ ngữ là chỉ về phía mặt trăng. Do đó, khi chúng ta đang ngồi chỉ-tay, hoặc là thảo-luận về các ngón-tay, chúng ta không-có cảm-nhận. Kinh-nghiệm về một điều-gì có nghĩa là kết-nối với điều-nầy, cảm-nhận với điều-nầy, mà chúng ta không cần đặt-tên, và không cần dán nhãn-hiệu.

Sự lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong tôn-giáo và triết-học chính là sự thảo-luận gay gắt về các ngón-tay (chứ không phải là mặt-trăng). Khi thảo-luận về một ngón-tay, thì ngón-tay có phải là sự-thật không? Có phải chỉ có một ngón-tay duy-nhất, là có thể chỉ đúng vị-trí mặt trăng không? Khi chúng ta đại-diện cho một điều-gì đó khác nhau, mà đó lại là các ngón-tay của chúng ta, thì điều dễ hiểu là  chúng ta dễ dàng không đồng-ý về các ngón-tay của người khác.

NƠI-CHỐN MÀ CHÚNG TA ĐI ĐẾN KHÔNG-PHẢI LÀ CÁI BẢN-ĐỒ:

Tương-tự như ngón-tay chỉ mặt-trăng, bản-đồ không phải là nơi-chốn chúng ta đi đến. Bản-đồ là khái-niệm chúng ta có trong tâm về một điều gì đó. Đây có thể là một niềm tin, là một hình ảnh, hoặc là một bản-mẫu lặp-lại của ý-nghĩ. Chúng ta xử-dụng bản đồ nầy để đi tìm nơi chốn chúng ta đi đến. Nếu bản đồ chính xác, chúng ta tìm được địa chỉ. Nếu bản đồ sai-lệch đi một chút, chúng ta phải thay đổi bản đồ theo sự hiểu biết nầy, rồi sửa chữa bản đồ lại cho chính xác. Nếu bản đồ hoàn-toàn không chính-xác (hoặc là chúng ta dọn nhà qua một thành phố khác), chúng ta phải thay thế hoàn-toàn tấm bản đồ nầy. Chuyện thay đổi bản đồ là chuyện thông thường vẫn xảy ra.

Hình-ảnh bản-thân chúng ta, hoặc còn gọi là cái-tôi của chúng ta, cũng là một loại bản-đồ (nói theo một cách khác). Đấy là tất cả mọi thứ mà chúng ta lưu giữ về bản thân mình. Đấy là bản đồ của chúng ta, và chúng ta hành-động theo cái bản đồ nầy. Chúng ta muốn cải-thiện hình-ảnh bản-thân chúng ta, thì chúng ta dùng khả-năng trí-tuệ của chúng ta để làm điều nầy: khi chúng ta có những ước-muốn, thì chúng ta đặt mục-tiêu, rồi chúng ta làm việc để đạt tới các mục-tiêu nầy. Bản đồ nầy còn gọi là cái-tôi của chúng ta, là một bản đồ rất hữu-ích mà chúng ta tự tạo ra không ngừng-nghỉ. Tuy nhiên, điều quan trọng mà chúng ta nên nhớ: rằng đây chỉ là cái bản đồ.

Chúng ta có bản đồ là một điều tốt, miễn là chúng ta biết đó chỉ là cái bản đồ mà thôi.

Điều nầy có nghĩa là:

1. Bản đồ thì có thể thay đổi: có nghĩa là các khái-niệm về bản-thân (thí dụ như cái-tôi, thí dụ như chúng ta nghĩ chúng ta là ai) có thể thay-đổi, và các điều nầy là căn-bản cho sự phát-triển về bản-thân. Sự thay đổi trên bản đồ nầy bao gồm các sự suy-nghĩ, các niềm tin, và các hành-động của chúng ta: có nghĩa là thế-giới-quan, và hình-ảnh bản-thân của chúng ta.

2. Nơi chốn mà chúng ta đi đến không phải là cái bản đồ: chúng ta không phải là cái-tôi. Chúng ta không phải là hình-ảnh bản-thân, nói một cách khác: chúng ta không phải là những gì chúng ta nghĩ chúng-ta là-như-thế; hiểu theo nghĩa đen, các ý-nghĩ (và các khái-niệm khác) là cái bản đồ, chứ không phải là nơi chốn chúng ta đi đến.

Bước quan trọng để Đánh Thức Tâm-Linh là chúng ta cần buông bỏ bản-đồ, và thực-tập sự hiểu-biết mọi vật mà không cần dùng tới bản-đồ.

Tuy nhiên, (đối với tôi) điều nầy không-có nghĩa là lúc-nào chúng ta cũng buông-bỏ bản-đồ. Tôi cần có bản-đồ để sinh-hoạt trong cuộc-sống, và cũng để liên-lạc với mọi người. Vì thế, tôi tạo ra bản đồ, để xử-dụng trong mọi hoàn-cảnh thích-hợp, và tôi xử-dụng theo một phương cách tốt đẹp nhất (mà tôi có thể làm được). Tuy nhiên, có một sự khác biệt ở đây: tôi biết rằng nơi tôi đến không phải là cái bản đồ. Cũng như thế, tôi biết rằng hình-ảnh bản-thân tôi chỉ là hình-ảnh bản-thân, chứ không phải là tôi.

Ken Wilber gọi quá-trình nầy là "Bao Gồm Và Vượt Qua Mọi Giới Hạn". Hoặc như Genpo Roshi đã nói rằng: chúng ta có thể vượt qua mọi giới-hạn của cái-tôi, tuy nhiên, chúng ta vẫn còn xử-dụng cái-tôi như là một con-người, khi chúng ta biết rằng Con Người gồm có hai mặt, một mặt là Tâm-Mỗi-Ngày, và một mặt là Chân-Tâm: mời quý vị xem thêm bài viết của tôi về Sức-Mạnh Bản-Thân so-sánh với Sức-Mạnh Hiện-Tại.

MỘT CÂU CHUYỆN VỀ THIỀN (TRÊN TRANG MẠNG CÓ TÊN LÀ 'NGÓN TAY CHỈ MẶT TRĂNG')

"Khi Thiền-Sư Nan-chuan nhìn thấy học trò của mình là Ma-tsu siêng năng thực-tập thiền định nhiều tiếng đồng hồ mỗi ngày, thiền-sư nhìn thấy một nỗ-lực và một nguyện-vọng chắc-chắn trong thói-quen của nhà sư trẻ nầy, cho nên thiền-sư đã lẻn ra phía sau của Ma-tsu, rồi hỏi rằng: "Con đang làm gì vậy?", Ma-tsu trả lời đầy tự hào, "Con đang cố gắng để trở thành một vị Phật". Sau đó, Thiền-Sư Nan-chuan nhặt lên một hòn đá, và ông bắt đầu mài hòn đá trên một viên gạch dư, để trên sàn nhà của tu viện. Nghe thấy tiếng mài đá, Ma-tsu hỏi, "Thầy đang làm gì vậy?" Thiền-Sư Nan-chuan trả lời: "Thầy đang cố gắng để làm một tấm gương." Và từ đó, Ma-tsu đã có sự tỉnh-thức.

Câu chuyện trên muốn nói đến điều sau đây:

Tất cả mọi vật chỉ-là-như-thế! Ma-tsu là Ma-tsu, viên gạch là viên gạch, và chúng tachúng ta, chỉ-là-như-thế. Không có Phật bên ngoài sự-thật căn-bản nầy, và cũng như không-có bất-kỳ nỗ-lực nào để đạt đến một trạng-thái đặc-biệt của tâm, mà dẫn dắt chúng ta ra bên-ngoài sự-thật nầy, đấy là những-gì tạo ra chúng ta là ai, và những-gì mà chúng ta đã sẵn-có. Bằng cách chúng ta tiếp-cận trực-tiếp với sự-thật ..., bằng cách chúng ta trực-tiếp nhận ra bản-chất thật-sự của chúng ta, mà luôn-luôn sẵn-có trong chúng ta trong từng giây-phút, dù cho đó là lúc chúng ta ngồi bên trên hoặc là bên ngoài tọa-cụ, dù cho đó là lúc chúng ta đang ngồi thiền hay không ngồi thiền. Chúng ta chỉ cần thực-hành giống như là Dogen Zenji đã nói, "chúng ta hãy nhìn lại chúng ta, bằng cách chúng ta đi lùi lại một bước, rồi bật lên ngọn đèn tâm, để làm Chân Tâm của chúng ta tỏa sáng."" - Stephan Bodian

Hotei pointing with the finger to the moon

Source-Nguồn: http://www.awakeblogger.com/the-meaning-of-the-finger-pointing-to-the-moon

 

The Meaning Of The Finger Pointing To The Moon
Myrko Thum - Source-Nguồn: www.awakeblogger.com

 

The nun Wu Jincang asked the Sixth Patriach Huineng, “I have studied the Mahaparinirvana sutra for many years, yet there are many areas I do not quite understand. Please enlighten me.”

The patriach responded, “I am illiterate. Please read out the characters to me and perhaps I will be able to explain the meaning.”

Said the nun, “You cannot even recognize the characters. How are you able then to understand the meaning?”

“Truth has nothing to do with words. Truth can be likened to the bright moon in the sky. Words, in this case, can be likened to a finger. The finger can point to the moon’s location. However, the finger is not the moon. To look at the moon, it is necessary to gaze beyond the finger, right?”

The finger pointing to the moon is not the moon is the essence here. But what does this mean on a deeper level? How does it relate to todays everyday life? How can we understand the meaning in an useful manner?

The laughing Buddha Hotei is pointing to the moon, who was a monk who lived during the Later Liang Dynasty (907–923 AD) of China. Contentment and happiness being his defining attributes, Hotei has a cheerful face and a big belly.

ANALYZING THE POINTER IS POINTLESS

… said Eckhart Tolle, yet we tend to analyze the pointers without noticing it. If we are discussing about whether something is good for us or not or especially if we come to a philosophical debate, we are discussing the validity of models and concepts. We can also go out and experience something directly.

It’s the same with spirituality.

Spirituality is all about experiencing and the truth itself. So this post here is of course a finger pointing. The words are only pointing. So as long as we are pointing and discussing about the different pointers, we are not experiencing. The experience of something is the connection with something, the feeling one with something, without labeling.

What happens in philosophy and in religion again and again is the intense discussion about the pointers. How can it be that there is a discussion about one thing that is true? It is one thing right? It can only be because we represent something differently, which are different pointers. Then it is easy to discuss and disagree about them.

THE MAP IS NOT THE TERRITORY

The map is not the territory is just another way to point to the same thing. The map is the concept of what we have in the mind about something. It’s a belief, an image or a thought-pattern. We use this map in the same way as we use a city-map to find a location. If the map is correct, we will find our location. If it is slightly incorrect, we have to correct it by new knowledge, optimize it. If it is completely incorrect or we move to another city, we have to replace the map altogether. What is happening is that we changed the map. And this is happening all the time.

Another map is the self-image or we may call it the ego. It is everything we saved about ourselves. It is the map of ourselves and we act from it. We want to improve our self-image and we use our intellectual abilities to do so: we get our desires and we set goals and work towards them. The map called the ego is a very useful map that we constantly create ourselves. But here is the important thing: it is still a map.

It’s nice to have a map, as long as you know it’s a map

Which means:

1. The map can change: which means our self-concept (the ego, who we think we are) can change and this is the basis of personal development. This changing map includes our thoughts, beliefs and actions: the whole world-view and the self-image.

2. The map is not the territory: I am not the ego, my self-image. You are not your self-image, or in other words: You and I are not who we think we are; think in the literally sense of the word: thoughts (and all other concepts) are the map, not the territory.

 The important step to Spiritual Awakening is dropping the map and experiencing what is without the map.

But, (for me at least) this means not to remove the map for all time. I need the map to function in the world and to relate to everything. So I create maps and use maps in a very intense way, in the best way possible. But there is one difference: I dis-identified the map from the territory. So I know that my self-image is my self-image but not the self.

Ken Wilber called the process “Transcend and include”. Or as Genpo Roshi put it: the reason we are able to transcent the ego but still use it as a human being is that we know the Being side of the Human Being as well as the Human Side: check my posting about Personal Power vs. The Power of Now for more.

THIS IS A ZEN STORY I FOUND ON THE WEBSITE POINTING TO THE MOON:

“When Zen Master Nan-chuan saw his student Ma-tsu diligently practicing meditation hour after hour, he sensed a certain effort and ambition in the young monk’s demeanor, so he sneaked up behind him and asked, “What are you doing?” “I’m trying to become a Buddha,” Ma-tsu replied proudly. Nan-chuan then picked up a stone and began rubbing it against a spare tile from the monastery floor. Hearing the sound, Ma-tsu asked, “What are you doing?” Said Nan-chuan: “I’m trying to make a mirror.” Ma-tsu had an awakening.

And it goes on:

Everything is just as it is! Ma-tsu is Ma-tsu, the tile is the tile, and you are you, just as you are. There’s no Buddha apart from this fundamental truth, and any attempt to achieve some special state of mind just leads you away from who and what you already are. In the direct approach to truth …, the direct recognition of your true nature is available in every instant, on or off the cushion, whether you meditate or not. You merely need to “take the backward step that turns your light inward to illuminate the Self,” as Dogen Zenji said.” – Stephan Bodian

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 69)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 145)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 223)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 189)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 237)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 435)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 530)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 719)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 801)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 805)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 696)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 681)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 686)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 793)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 816)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 911)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 682)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 686)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1175)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1089)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1096)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1235)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1065)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 919)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1043)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1079)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1496)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1247)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1259)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1150)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant