Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Pháp Ngữ Trong Kinh Kim Cang

19 Tháng Năm 201611:22(Xem: 8760)
Pháp Ngữ Trong Kinh Kim Cang

Tủ Sách Bảo Anh Lạc
PHÁP NGỮ
TRONG KINH KIM CANG

Thích Nữ Giới Hương

(Tái bản lần 3)
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC – 2016 

Pháp Ngữ Trong Kinh Kim Cang cover


Địa chỉ Liên lạc:

Huong Sen Buddhist Temple
19865 Seaton Avenue,
Perris, CA 92570. USA
Tel:  951 657 7272 Cell: 951 616 8620
Email: huongsentemple@gmail.com,
thichnugioihuong@yahoo.com
Web:  www.huongsentemple.com



MỤC LỤC

Lời Giới Thiệu
Lời Đầu
CHƯƠNG 1: XUẤT XỨ KINH KIM CANG.. 1

I.   KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT.CHƯƠNG 1
II.  XUẤT XỨ KINH KIM CANG.. 2
III. Ý NGHĨA TÊN KINH KIM CANG.. 4
IV. NHÂN DUYÊN CỦA TÔN GIẢ TU BỒ ĐỀKINH KIM CANG   8
V. NHÂN DUYÊN CỦA LỤC TỔ HUỆ NĂNGKINH KIM CANG   19

CHƯƠNG 2: PHÁP NGỮ TRONG KINH KIM CANG.. 26
A. ĐỊNH NGHĨA.............................................................26
B. PHÁP NGỮ TRONG KINH KIM CANG..................27
I. AN TRỤ TÂM & HÀNG PHỤC TÂM.. 28
1.  Hàng phục vọng tâm.. 29
2.  An Trụ tâm.. 44
II. KHÔNG TRỤ NƠI NÀO MÀ SANH TÂM.. 47
III.   HỄ CÓ TƯỚNG ĐỀU LÀ HƯ-VỌNG.. 50
1. Tướng là hư vọng. 51
2. Xâu Chuỗi Bong Bóng. 54
IV.  NẾU THẤY CÁC TƯỚNG KHÔNG PHẢI TƯỚNG TỨC LÀ THẤY ĐƯỢC NHƯ LAI 57
V. DÙNG SẮC ĐỂ THẤY NHƯ LAITÀ ĐẠO.. 61
1. Pháp thân Đức Phật thường trụ khắp pháp giới 61
2. Chấp Ba mươi hai tướng của Như Laità đạo. 63
3. Nhập Tánh Không để đón pháp thân vô tướng của Đức Phật 67
VI.  TÂM QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI & TƯƠNG LAI LÀ BẤT KHẢ ĐẮC   70
1. Chuyện Tổ Đức Sơn với Ba Tâm Bất Khả Đắc. 70
2. Tâm quá khứ, hiện tạivị lai đều không nắm được. .. 74
VII. PHÁP CÒN NÊN BỎ HUỐNG CHI PHI PHÁP - CHIẾC BÈ QUA SÔNG   77
1. Pháp và phi pháp đều buông bỏ. 77
2. Pháp Phật như liều thuốc trị bịnh. 84
3. Do mê nên Đức Phật thuyết Pháp. 86
VIII. CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ BỐN CÂU KỆ KINH KIM CANG NHIỀU HƠN BỐ THÍ CỦA BÁU KHẮP TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI 87
1. Tướng phước đức và tánh phước đức. 89
2. Ngón Tay & Mặt Trăng. 91
3. Tam thiên đại thiên thế giớisố cát sông Hằng. 92
4. Phước vô vi và phước hữu vi 96
IX.  CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ BỐN CÂU KỆ KINH KIM CANG NHIỀU HƠN BỐ THÍ THÂN MẠNG NHƯ SỐ CÁT SÔNG HẰNG.. 97
X. NẾU NÓI NHƯ LAI THUYẾT PHÁPPHỈ BÁNG NHƯ LAI 102
1. Tôn giả Tu Bồ Đề chưa từng giảng pháp. 103
2. Chân Đế & Tục Đế. 105
3. Trí Tuệ như Đức Phật 109
4. Đức Phật Chưa Từng Nói Một Lời 110
XI.  TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT TỨC KHÔNG PHẢI TRANG NGHIÊM MỚI GỌI LÀ TRANG NGHIÊM.. 112
1. Trang Nghiêm cõi Phật A Di Đà, Dược Sư và Huyền Hoa Tạng Pháp Giới 113
2. Trang Nghiêm Cõi Phật của Kinh Kim Cang. 118
3. Xây Ngôi Nhà Phật Pháp. 120
XII. NHẪN NHỤC KHÔNG PHẢI NHẪN NHỤC MỚI GỌI LÀ NHẪN NHỤC   123
1. Chuyện Vua Ca LợiTiên Nhân. 124
2. Nhẫn nhục. 129
3. Nhẫn Nhục Ba La Mật 132
4. Lục độLý Tưởng Bồ Tát 133
XIII. BÁT NHÃ BA LA MẬT KHÔNG PHẢI BÁT NHÃ BA LA MẬT MỚI GỌI LÀ BÁT NHÃ BA LA MẬT. 135
1. Bát Nhã Ba-la-mật 135
2. Đệ Nhất Ba La Mật 137
3. Không có pháp nào để đắc. 138
4. Không thấy đối đãi hai bên. 138
5. Đức PhậtTu Bồ Đề trong Hội Bát Nhã. 139
XIV. VI TRẦN KHÔNG PHẢI VI TRẦN MỚI GỌI LÀ VI TRẦN   145
XV. HỢP TƯỚNG CHẲNG PHẢI HỢP TƯỚNG MỚI GỌI LÀ HỢP TƯỚNG   147
XVI. BA MƯƠI HAI TƯỚNG KHÔNG PHẢI LÀ BA MƯƠI HAI TƯỚNG MỚI GỌI LÀ BA MƯƠI HAI TƯỚNG.. 150

CHƯƠNG 3: CÔNG ĐỨC TIN PHÁP NGỮ KINH KIM CANG   157
I.   THẮNG DUYÊN CỦA TÔN GIẢ TU BỒ ĐỀ & KINH KIM CANG   157
II.  TRÌ KINH KIM CANGHI HỮU BẬC NHẤT. 159
III. TIN KINH KIM CANG LÀ KÍNH THỜ VÔ SỐ PHẬT  162
IV. KINH KIM CANG LÀ MẸ CỦA CHƯ PHẬT. 166
V. NHỜ CÔNG ĐỨC TRÌ KINH MÀ NGHIỆP CHƯỚNG NHẸ TIÊU   168
VI. AI NGHE KINH KIM CANGKHÔNG KINH KHÔNG SỢ LÀ RẤT HIẾM CÓ.. 170
VII.     TÔN TRỌNG KINH ĐIỂN.. 172
VIII. CÚNG DƯỜNG 84 NGÀN VỊ PHẬT KHÔNG BẰNG CÔNG ĐỨC TRÌ KINH KIM CANG.. 173

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN.. 177

THAM KHẢO.. 187

LỜI GIỚI THIỆU

 

Những ai đã trì tụng Kinh Kim Cang nhiều lần rồi thì sẽ cảm nhận được thế nào là Bát Nhã, thế nào là Tánh Không, thế nào là Vô Nhơn Tướng, Vô Ngã Tướng, Vô Chúng Sanh Tướng, Vô Thọ Giả Tướng v.v… rồi những bài kệ như:

“Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”. Nghĩa là: Kẻ nào dùng hình tướng để thấy ta, dùng âm thanh để cầu ta, người nầy làm việc quấy, chẳng thể thấy Như Lai. Lại có đọan giải thích về Như Lai rằng: “Như Lai giả, vô sở tòng lai, diệc vô khứ gọi là Như Lai...

Trong Kinh Tạp A Hàmcâu chuyện về Ngã và Ngã sở mà Ngài A Nan đã trình lên Đức Phật như sau: Ngài A Nan thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn, Con vẫn nghe Ngài nói đến Ngã và Ngã sở; nhưng con chưa hiểu rốt ráo được những điều nầy, kính mong Đức Thế Tôn giải bày cho con và Đại Chúng nghe.

Đức Thế Tôn bảo rằng: Ông hãy lắng nghe đây: nếu Ông lấy hai bàn tay vỗ vào nhau thì chắc chắn một âm thanh sẽ được tạo nên. Vậy thì âm thanh ấy từ đâu mà có và sau khi âm thanh ấy không còn nữa thì âm thanh đó đi về đâu?

Bạch Thế Tôn, âm thanh ấy không từ đâu đến và cũng không đi về đâu cả. Do duyên hợp nên phát ra âm thanh và duyên không còn nữa thì âm thanh lại tan biến.

Đức Phật bảo rằng: Cũng như vậy, ngã là những gì không thực tướng, nó cũng giống như tiếng vỗ của hai bàn tay; nhưng vì chúng sanh mê mờ, vô minh vọng tưởng, nên cho đó là thật, chứ kỳ thật, ngã chẳng là gì cả. Còn ngã sở tức là những gì thuộc về mình, ví như đống củi kia, tuy có thấy hình tướng đó, nhưng sau khi đốt củi đi rồi thì chỉ còn là đống than. Nó không có thật. Lâu nay, chúng sanh cho rằng cái nầy của ta, cái nầy thuộc về ta; nhưng chẳng cái gì là của ta cả.

Từ Kinh căn bản Nam Truyền và trải qua mấy trăm năm sau, Kinh được thăng hoa lên tinh thần Trung Quán hay Bát Nhã của Đại Thừa (Bắc truyền), chúng ta thấy không có gì sai khác mấy, qua hai dẫn chứng đã nêu trên. Do vậy văn phong trong Kinh Kim Cang bảo rằng: vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướngvô thọ giả tướng, không phải là những ẩn dụ khó hiểu, mà là tướng thật của vạn pháp là như vậy; nhưng chúng sanh không chịu hiểu và thực hành mà thôi.

Kinh Kim Cang Bát Nhã có 32 đọan tất cả, nay Ni Sư Giới Hương dựa vào bản dịch Việt của Hòa Thượng Trí Tịnhchú giải ra từng đọan một và được trích dẫn qua các kinh sách khác cũng như có luận cứ rõ ràng, khiến cho chúng ta khi đọc đến tác phẩm “Pháp Ngữ trong Kinh Kim Cang” nầy, chúng ta dễ lãnh hội hơn, nhất là có những câu chuyện về Đức Sơn, Long Đàm hay Vua Ca Lợi và Tiên Nhơn v.v.. Những điểm chính Ni Sư đã giải bày cặn kẽ; nhưng vấn đề ở đây là người đọc hay kẻ hành trì phải chứng thực như pháp đã là, nó tùy thuộc vào trí tuệcông năng hành trì của mỗi người vậy. Kim Cang Bát Nhã nặng phần Pháp Hành chứ không phải ở Pháp Học hoặc lý giải viễn vông mà câu chuyện của Ngài Thần Tú và Ngài Huệ Năng là một bằng chứng hùng hồn nhất.

Ngày xưa Cụ Nguyễn Du, tác giả cuốn Kim Vân Kiều, đã hơn 300 lần trì tụng Kinh nầy mới tạo nên tác phẩm giá trị nghìn đời ấy cho văn học Việt Nam (ngã độc Kim Cang tam bách biến); còn ngày nay chúng ta người xuất gia cũng như tại gia đã hành trì Kim Cang được bao nhiêu lần rồi. Đó là nhiệm vụ của mỗi hành giả chúng ta vậy. Tôi được cái duyên trong mười năm như vậy (2003 đến 2012), mỗi năm hai đến ba tháng ở yên nơi núi đồi Đa Bảo tại Sydney, Úc Châu, hằng ngày dịch kinh, viết sách và đêm về đã trì tụng bộ kinh giá trị nầy, chắc cũng không dưới 500 lần và mỗi lần gần hai tiếng đồng hồ. Từ đó, tôi cảm nhận được một cái Không to tướng và nhìn Đời hay vạn vật chung quanh núi rừng Đa Bảo hay bất cứ nơi đâu cũng đã nương vào thần lực của Kim Cangthẩm định được mọi việc trên đời này.

Việt Nam Phật Giáo chúng ta đang cần Pháp Hành như Phật Giáo Tây Tạng đang thọ trì. Thế nhưng không có Pháp Học thì Pháp Hành cũng khó hiển bày được chơn tâm. Trừ phi những vị ấy là Bồ Tát hóa thân như Ngài Huệ NăngTrung Quốc. Ngày nay Phật Giáo Việt Nam tại quốc nội cũng như ở hải ngoại, chúng tôi mong mõi chư Tăng Ni và Phật Tử đều nên cố gắng hành trì miên mật những giá trị thực tiễn của Kinh Điển Nam Truyền, Bắc Truyền hay Kim Cang Thừa đều quý báu cả. Vì khoa học tiến bộ bao nhiêu thì càng làm rõ lại lời Phật dạy bấy nhiêu và những gì chúng ta hành trì được, lại càng làm tăng giá trị nội tại của mỗi người sẽ thực chứng được vạn pháp. Khi Pháp đã hiểu, thì chúng ta sẽ hiểu được Phật và khi đã hiểu được Phật rồi, thì chúng ta sẽ hiểu được Pháp. Pháp ấy như các vị A La Hán khi chứng thực, thường hay nói rằng: “Ta việc sanh đã hết, những Phạm Hạnh đã lập. Việc gì cần làm, ta đã làm xong và ta biết chắc một điều là ta không còn tái sanh nữa”. Ai chứng được Pháp ấy, chính là những vị sẽ được giải thoát sanh tử bì lao ngay trong hiện kiếp nầy.

Nay Ni Sư Giới Hương đã gọt xắt rồi đem ra nấu nướng, chiên xào mọi cách Kinh nầy qua lăng kính Nam Tông cũng như Bắc Tông, cũng chỉ nhằm mục đích đón chào, mời mọc tất cả mọi người hãy ngồi vào bàn tiệc của Tánh Không, nhằm gắp lên những món ăn tinh thần Vô Tướng, để chúng ta hội nhập vào Niết Bàn Vô Ngã và để từ đó Chân Tâm Phật Tánh của chúng ta sẽ tự hiển bày như ánh thái dương bắt đầu tỏ rạng nơi phương Đông màu nhiệm ấy.

Kính chúc quý độc giả Phật Tử  nên trân quý Kinh nầy bằng cách hành trì, đọc tụng cũng như nghiên cứu tỉ mỉ những lời giải thích trong những Pháp Ngữ mà Cô Giới Hương đã trình bày trong bản kinh này, thì đó là một điều lợi lạc không cùng vậy.

 

Viết xong lời giới thiệu nầy
vào ngày 4 tháng 2 năm 2016
tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.
Thích Như Điển
Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover.



LỜI ĐẦU


Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh đại thừa Phật giáo. Cách đây hơn 30 năm, khi còn là chú điệu Sadini trong chùa, tôi thường ngồi vắt vẽo dựa vào nhánh khế của chùa để học thuộc lòng bản kinh Kim Cang. Kinh bằng âm Hán Việt nên tôi không hiểu gì mà ngay cả có bằng Việt ngữ cũng không hiểu gì cả so với bộ não mới bé con vào chùa của tôi. Sư phụ không bắt học thuộc lòng, chỉ kêu tụng khi chùa có dịp khai kinh Kim Cang, nhưng không hiểu sao trong lòng cứ có cái gì đó thôi thúc học thuộc lòng: chắc để mai sau mình lớn lên sẽ lợi ích?  hay học thuộc lòng trước để nếu sau này sư phụ có tổ chức cuộc thi trả bài lấy điểm (như đã học thuộc lòng Quan Âm Quảng Trần để trả bài) thì mình đã thuộc rồi? hay học để lấy lý do cho phép tôi vào mỗi chiều gió mát, được ngồi dựa gốc khế, lượm những quả khế chín vàng rụng xung quanh và được thưởng thức những dòng nước khế ngọt lịm chảy tận vào lòng?

Ba mươi năm sau trí khôn lớn dần và câu hỏi đã được trả lời.  Tôi học thuộc lòng kinh Kim Cang vì những lý do trên đó và ngay cả cho một lý do bây giờ (mà trước đó không bao giờ biết đến) là để năm 2014 được mạo muội ra mắt cuốn sách Pháp Ngữ trong Kinh Kim Cang. Chúng con đãnh lễ tri ân cố Tôn sư Hải Triều Âm, người đã trao truyền ý chỉ của kinh Kim Cang cho chúng con, như những hạt lúa tròn chắc để có thể trôi nổi ở các nơi theo duyên sanh mà nảy mầm thức tỉnh giải thoát. Chúng con xin nhiệt tình san sẻ những lời dạy của Cố Tôn sư mà chúng con đã học được để trình bày trong cuốn sách này. Trí Tuệ Kim Cang vô tướng, không lời, mà chúng con mạo muội dùng ngôn ngữ trần gian để giải thích, nên sẽ có nhiều sai xót vấp phải. Kính mong quý đọc giả và giác giả cao minh thương xót chỉ dạy. Chúng con sẽ điều chỉnh để lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn trong Phật sự tận lòng: “Phục Vụ Chúng SanhCúng Dường Chư Phật”.

Xin kính chúc quý độc giả luôn an lạc trong chánh pháp của Đức Thế Tôn.

Nam Mô Kim Cang Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát
Ma Ha Tát tác đại chứng minh.
Chùa Hương Sen, ngày 20/ 01/ 2014
Chúng con thành tâm kính lễ
Thích Nữ Giới Hương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 118)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 147)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 218)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 147)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 198)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 179)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 215)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 231)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 315)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 557)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 420)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 433)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 526)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 709)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 765)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 785)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 795)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 668)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 678)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 789)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 809)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 905)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 672)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 580)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 678)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 798)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 684)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 690)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 785)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 808)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 789)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 836)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 862)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 850)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1039)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 914)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1577)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1021)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 912)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1084)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1080)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1227)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1502)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1935)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1053)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1312)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1055)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 912)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1038)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1069)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1226)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1250)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 989)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1146)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1612)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant