Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tái Sanh

09 Tháng Mười Hai 201619:03(Xem: 8405)
Tái Sanh
                                          TÁI SANH                                           

Nguyên tác: On Reincarnation
Tuệ Uyển chuyển ngữ

tai sanh

 

Những người Phật tử có tin trong việc tái sanh kiếp sau vào những thế giới không phải cõi người không? Bạn có tin rằng bạn sẽ là một vị trời hay một con thú không trong tương lai không? Thần thức sẽ đầu thai vào một thân thể khác của một người khác hay một con thú nào đó không? Có gì khác biệt giữa đầu thai (transmigration) và tái sanh (reincarnation)? Có phải chúng là giống nhau? Có phải nghiệp báo cũng giống như số phận? Những câu hỏi này và hàng trăm câu hỏi tương tự như vậy thường dằn vặt trong tôi.

 

Có nhiều sự thấu hiểu sai lạc tồn tại trong Phật giáo ngày nay, đặc biệt là trong khái niệm về tái sanh. Sự thấu hiểu sai lạc thông thường là một người đã trải qua vô lượng kiếp trước thường là một con vật, nhưng thế nào đấy mà trong kiếp này lại được sanh ra như môt con người và trong kiếp tiếp theo người ấy sẽ lại bị tái sanh như một con vật, tùy thuộc vào lối sống của người ấy.

 

Sự thấu hiểu sai lạc này sinh khởi bởi vì người ta thường không biết – đọc kinh luận hay giáo điển như thế nào. Như được nói rằng Đức Phật đã để lại tám mươi bốn nghìn giáo huấn; biểu tượng cho sự trình bày tùy thuộc vào căn cơ của con người, … Đức Phật đã dạy bảo tùy năng lực tinh thầntâm linh của mỗi cá nhân. Đối với những người dân làng giản dị trong thời Đức Phật, giáo lý tái sanh là một bài học đạo đức đầy năng lực. Sự sợ hãi phải tái sanh vào thế giới thú vật làm kinh khủng nhiều người đã hành động như những con thú trong đời sống của họ.  Nếu nghiên cứu giáo lý này theo văn tự ngày này thì chúng ta phải bối rốichúng ta không thể thấu hiểu một cách rõ ràng.

 

Ở đây là vấn nạn của chúng ta. Một câu chuyện ngụ ngôn, khi chúng ta đọc theo văn tự, nó không hợp lý với tâm thức hiện đại. Do vậy, chúng ta phải nghiên cứu để phân biệt những câu chuyện và huyền thoại từ thực tế. Tuy nhiên, nếu chúng ta nghiên cứu để vượt khỏi hay siêu việt văn tự của những câu chuyện và huyền thoại thì chúng ta có thể thấu hiểu lẻ thật.

 

Người ta sẽ nói “Nếu trường hợp là như vậy tại sao không nói một cách trực tiếp vì vậy chúng ta có thể đi đến nắm bắt ngay lập tức lẻ thật?”  Tuyên bố này là có thể hiểu được, nhưng lẻ thật thì thường không thể diễn tả được. [Phụ giải: Như những con người chúng ta thì bị giới hạn trong việc thấu hiểu “tri kiến của Phật”. Chúng ta không thể nói LẺ THẬT, chỉ từ ngữ VỀ Lẻ Thật] Do thế, người viết và giáo thọ thường nhờ đến ngôn ngữ của sự tưởng tượng để hướng người đọc từ bậc thấp đến bậc cao hơn của LẺ THẬT. Giáo lý tái sanh thì thường được hiểu trong sự soi sáng này.

 

Thứ Gì Không Phải là Tái sanh.

 

Tái sanh không phải là một sự sanh sản vật lý giản dị của một người; thí dụ, Giáp bị tái sanh là một con chó vào kiếp tới. Trong trường hợp này Giáp sở hữu một linh hồn vĩnh cửu vốn bị chuyển hóa hình thể thành một con chó sau khi Giáp chết. Vòng lẩn quẩn này lập đi lập lại mãi. Hay nếu may mắn, Giáp sẽ được tái sanh như một con người. Khái niệm này về đầu thai của linh hồn chắc chắnkhông tồn tại trong Đạo Phật.

 

Nghiệp

 

Nghiệp – karma là một từ ngữ Sanskrt có gốc từ “kri” hay hoạt động hay làm có nghĩa đơn giản là “hành động.” Nó hoạt động trong vũ trụ như vòng phản ứng tương tục của nguyên nhân và kết quả. Nó không chỉ giới hạn nhân quả trong ý nghĩa vật lý mà cũng hàm ý đạo đức. “Một nguyên nhân tốt lành, một hệ quả tốt lành; một nguyên nhân xấu ác, một hệ quả xấu ác” là lời nói thông thường. Nghiệp trong ý nghĩa này là một quy luật đạo đức luân lý.

 

Ngày nay con người đang liên tục phát ra những năng lực vật lýtâm linh trong mọi phương hướng. Trong vật lý chúng ta biết rằng không năng lượng nào bị mất đi vĩnh viễn; nó chỉ thay đổi hình thể. Đây là quy luật bảo tồn năng lượng thông thường . Tương tự thế, hành động tâm linhtinh thần không bao giờ mất đi. Nó chỉ chuyển hóa. Vì thế Nghiệp là định luật bảo tồn năng lượng đạo đức.

 

Bằng hành động, suy nghĩlời nói, con người phát ra năng lượng tâm linh vào vũ trụcon người trở lại bị ảnh hưởng bởi những tác động [vốn của con người] đang hướng tới con người. Con người do thế là người gửi và nhận tất cả những tác động này. Toàn bộ hoàn cảnh bao quanh con người là nghiệp của con người vậy.

 

Với mỗi hành viảnh hưởng người ấy gửi đi và cùng lúc, nhận lại, người ấy đang thay đổi. Sự thay đổi cá nhân này và thế giới mà người ấy đang sống, cấu thành tổng thể nghiệp của người ấy.

 

Nghiệp không nên bị lầm lẫn với số mạng. Số mạng là khái niệm rằng đời sống con người được quy định trước bởi một quyền năng bên ngoài nào ấy, và người ta không thể kiểm soát được gì với số phận của chính mình. Nghiệp trái lại có thể thay đổi được. Vì con người là một chúng sanh hữu tình ý thức cho nên người ta có thể tỉnh thức về nghiệp của chính họ và vì vậy cố gắng để thay đổi môi trường của những sự kiện (nhân duyên). Trong Lời Vàng của Phật chúng ta thấy những lời này, “Chúng ta là kết quả của những gì chúng ta suy nghĩ, nó được thấy trong suy nghĩ của chúng ta và được làm nên bởi suy nghĩ của chúng ta.”

 

Thế thì những gì chúng ta là - thì hoàn toàn lệ thuộc vào những gì chúng ta suy nghĩ. Do vậy, đặc tính quý giá của con ngườilệ thuộc vào những tư tưởng, hành động, và lời nói “tốt lành” của người ấy. Đồng thời, nếu người ấy ôm ấp những tư tưởng xấu ác, thì những tư tưởng ấy tác động không thay đổi người ấy vào những tư tưởnglời nói tiêu cực.

 

Thế Giới

 

Theo truyền thống, Đạo Phật dạy về sự tồn tại của mười thế giới. Trước nhất là Phật và trình độ dần xuống như: Bồ tát (một chúng sanh hướng thành Phật, nhưng hiện diện ở trần gian vì mục tiêu giáo hóa những chúng sanh khác), Độc Giác Phật, Thanh Văn (những đệ tử trực tiếp của Phật), chúng sanhcõi trời, loài người, A tu la (những linh thức đấu tranh), súc sanh, quỷ đói, và chúng sanhđịa ngục.

 

Bây giờ, mười cõi này có thể được xem như không cố định, những thế giới phi vật thể, như những thể trạng tinh thầntâm linh của tâm thức. Những thể trạng này của tâm thức được tạo nên bởi những tư tưởng, hành động và lời nói của loài người. Nói cách khác, là những tình trạng tâm lý. Mười thế giới này là “nội tại hổ tương và bao hàm hổ tương, mỗi thế giới có trong nó chín thế giới còn lại.” Thí dụ, thế giới loài người có tất cả chín thế giới khác (từ địa ngục đến Phật quả). Con người cùng lúc có khả năng của sự vị kỷ thật sự, tạo địa ngục cho chính con người, hay là lòng yêu thương thật sự, phản chiếu tâm từ bi của Đức Phật Di Đà. Chư Phật cũng vậy có chín thế giới khác trong tâm thức, vì vấn đề là làm sao một Đức Phật có thể cứu độ những chúng sanh trong địa ngục nếu tự chính Ngài không nhận ra nổi khổ của chúng sanh và hướng dẫn những chúng sanh ấy Giác Ngộ.

 

Bài Học

 

Chúng ta có thể học một bài học bổ ích từ giáo huấn tái sanh.

 

Bạn đang sống trong thế giới nào? Nếu bạn đói khát quyền lực, tình thương, và tự nhận ra mình, thì bạn đang sống trong thế giới của quỷ đói. Nếu bạn bị thúc đẩy chỉ bằng sự khao khát thân thể con người, bạn đang hiện diện trong thế giới của súc sanh. Xem xét rõ ràng rồi thì bạn sẽ có động cơ và xu hướng của bạn. Hãy nhớ rằng loài ngườitính cách đặc biệt ở vào vị trí trung điểm của mười thế giới; cho nên con người có thể hoặc là đột ngột hạ thấp hay dần dần đi vào địa ngục hay qua nguyên tắc đạo đức, trau dồi và tỉnh giác tâm thức để vươn đến thể trạng Giác Ngộ của Quả Phật.

 

Ẩn Tâm Lộ Tuesday, December 6, 2016

http://www.buddhanet.net/e-learning/reincarnation.htm

 

Bài liên hệ

Điều gì xảy ra khi chúng ta chết? đây là những gì Đạo Phật nói!

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 105)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 134)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 128)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 226)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 247)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 276)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 254)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 267)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 349)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 313)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 308)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 291)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 331)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 325)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 263)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 215)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 252)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 267)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 358)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 417)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 433)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 424)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 408)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 417)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 688)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 650)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 930)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 520)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 757)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 579)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 577)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 462)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 579)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 549)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 732)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 521)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 903)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 648)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 646)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1073)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 745)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 638)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 946)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 600)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 722)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 701)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 679)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 701)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 694)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 588)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant