Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Đi Vào Đời Ác Năm Trược

Wednesday, July 12, 201705:03(View: 8398)
Đi Vào Đời Ác Năm Trược

ĐI VÀO ĐỜI ÁC NĂM TRƯỢC

Nguyễn Thế Đăng


hoa sen

Xã hội là sự hiện hành, sự biểu hiện của tâm, tâm sở chúng sanh với rất nhiều tạp nhiễm phiền não của con người. Để đi vào cuộc đời, đi vào tâm tưởng tạp nhiễm phiền não của người khác hầu giải thoát cho họ, Bồ- tát phải mặc mũ giáp của trí huệ tánh Khôngđại bi vô ngại: “Các Đại Bồ-tát mặc đại mũ giáp có thể khắp tùy nhập trong hành động của tâm và tâm sở của tất cả chúng sanh, có thể khắp tịnh hóa các tạp nhiễm phiền não của tất cả chúng sanh. Các ngài ngồi Đại thừa để làm lớn các thiện căn cho tất cả chúng sanh”.

Mặc mũ giáp tánh Khôngđại bi, Bồ-tát thấy tánh Không của sắc, của các căn và thức, do đó không bị lây nhiễm tạp nhiễmphiền não của chúng sanh. Căn, trần và thức là sanh tử, thế nên thấy tánh Không của chúng là thấy không có sanh tử. Thấy tánh Không mà thấy không có sanh tử nên sanh tử không thể làm nhiễm ô.

“Lúc an trụ trong đạo ấy, Đại Bồ-tát được ánh sáng pháp. Do ánh sáng ấy nên thấy được tự tánh duyên khởi của tất cả pháp vốn Không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi.

Ở trong sắc mà chẳng thấy có sắc, ở trong thọ tưởng hành thức mà chẳng thấy có thọ tưởng hành thức. Ở trong thức mà chẳng thấy có thức khác với duyên khởi của thức. Biết rõ tướng của thức tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi, chỉ thuộc các duyên hòa hiệp, các duyên cũng là Không, là vô tướng, là vô khởi”.

Thấy sắc thọ tưởng hành thức của mình và của người là Không, vô tướng, vô khởi tức là thấy không có phiền não, không có sanh tử. Bồ-tát ở nơi sanh tử, ở với chúng sanh phiền não mà không thấy có sanh tử, không thấy có chúng sanh phiền não vì là “Không, là vô tướng, là vô khởi”, nghĩa là như huyễn. Đây là việc làm của Bồ-tát trong tánh Không, cho nên khi làm việc tự giác, giác tha, vị ấy giải thoát ngay trong công việc.

Cho đến thế giới bên ngoài, Bồ-tát thấy thế giới, quang cảnhnhân duyên sanh nên là tánh Không, và do đó giải thoát khỏi sự sanh trụ dị diệt của thế giới: “Cho đến địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới, đều không có tác giả, không có thọ giả. Chẳng ở chút pháp nào mà thấy có chút pháp khác với duyên mà sanh khởi. Các pháp đều thuộc nhân duyên, tự tánh các pháp không có tướng, không có khởi. Tự tánh của nhân duyên cũng là Không, là vô tướng, là vô khởi”.

Thế nên “các Đại Bồ-tát ngồi Đại thừa này dầu thọ lãnh sanh tử (thế giới, chúng sanh) nhưng ở đâu cũng chẳng bị ô nhiễm mà có thể thấy được lỗi lầm để có thể lìa khỏi”.

Thật sự thấy các pháp là Không, là vô tướng, là vô khởi tức là vô sanh pháp nhẫn; tất cả tướng và tưởng đều tịch diệt: “Các Đại Bồ-tát dùng pháp hành này để nắm giữ đạo mới được gọi là tùy thuận đạo, vì quán tất cả pháp tánh vốn Không, vì không tên, vì không tướng, vì không nguyện, vì không sanh, vì không tác. Lúc được ánh sáng pháp, quán thấy sự sanh dứt hết thì chẳng ở trong vô sanh mà khởi tưởng sanh. Liền ngay lúc ấy siêu thoát, lìa sự sanh, ra khỏi phi pháp mà được đạo thanh tịnhvô sanh pháp nhẫn. Vì đạo thanh tịnh nên vượt quá tất cả tưởng, chẳng còn trụ phi tưởng, tịch diệt cả đạo tưởng, lìa khỏi pháp tưởng, ra khỏi lưới vô minh. Dùng minh tu tập, những pháp đáng được đều có thể được cả”.

Tương ưng và an trụ tánh Không, Bồ-tát vô ngại đối với chúng sanhthế giới: “Các Đại Bồ-tát lúc hành đạo này chẳng trụ nơi xứ, chẳng bị tướng làm hại, biết tất cả pháp đồng với hư không, sanh như hư không sanh, tánh như tánh Không, không có chút tướng nào chướng ngại”.

Khi trọn vẹn sống trong tánh Không, các pháp không còn biên giới mà mở trống, không có biên giới; các pháp vốn tự giải thoát: “Do ánh sáng đại pháp nên thấy tất cả pháp đều không có biên bờ”.

Chính vì được an toàn trong sanh tử, tức là trong những tạp nhiễm phiền não của chúng sanh như vậy, với đại bi, Bồ-tát có thể gánh vác lấy gánh nặng chúng sanh:

“Này Vô Biên Huệ! Ông đã nhiếp thủ vô lượng thiện căn, ở đời mạt thế sau này, ông sẽ dùng pháp ấy để nhiếp lấy chúng sanh. Ông sẽ vì chúng sanhgánh vác lấy gánh nặng, được phước đức vô lượng, khó có thể nói hết được”.

Gánh vác chúng sanh trong đời mạt thế, như lời nguyện của ngài A-nan trong kinh Lăng Nghiêm:

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho
Đời ác năm trược thề vào trước
Còn một chúng sanh chưa thành Phật
Rốt chẳng nơi kia nhận Niết-bàn.

Bồ-tát gánh vác chúng sanh bằng cách mặc mũ giáp vô biên của tánh Khôngđại bi:

Bồ-tát mặc giáp trụ
Để nhiếp các chúng sanh
chúng sanh vô biên
Mặc giáp cũng vô biên…
Chúng sanh khổ sanh tử
Bức bách chẳng an ổn
Tôi thường làm cứu hộ
Mặc mũ giáp vô biên.
Vô biên khổ sanh tử
Tôi làm giải thoát được
Lưới ái kiến trói chặt
Tất cả đều sẽ đứt.

Mũ giáp ấy chính là tam-muội hải ấn bao trùm tất cả chúng sanhthế gian. Tam-muội hải ấntánh Khôngđại bi trùm khắp: “Dùng ấn lìa tánh ấn tất cả pháp nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn biết khắp tự tánh của tất cả. Lại như biển lớn, tất cả các dòng nước đều chảy vào trong ấy. Tất cả các pháp vào trong pháp ấn cũng như vậy. Thế nên gọi là hải ấn, ấn tất cả pháp đều vào trong hải ấn tất cả pháp, ở trong ấn ấy thấy tất cả pháp đồng pháp ấn”. Hải ấn ấy cũng là đại bi trùm khắp tất cả chúng sanh: “Đời mạt thế năm trăm năm sau, lúc Chánh pháp gần diệt, ông dùng pháp ấn ấy để ấn chúng sanh”.

Mũ giáp cứu thế gian, nhưng thế gian chẳng thể làm hư hại, vì mũ giáp ấy là vô tướng, chẳng thể thấy, chẳng thể chạm đến được. Mũ giáp là sự chiến thắng hoàn toàn với thế gian:

Đạo ấy rất sâu: không sanh không khởi, không xuất không tác, không đắc không hành, không xứ không trụ, không chướng không sự. Nơi tất cả sự lại có thể hiển hiện rõ ràng. Nơi tất cả sự mà không sai biệt. Chẳng xoay chuyển theo sự; do vì vô sự mà đến chỗ tối thượng.

Nơi mũ giáp ấy, thừa ấy, đạo ấy, các Đại Bồ-tát phải biết như vậy. Nhưng mũ giáp ấy, thừa ấy, đạo ấy không chỗ thấy được, không chỗ biết được, vì bất khả đắc vậy. Người mặc mũ giáp, người ngồi thừa ấy, người hành đạo ấy cũng chẳng thấy được, cũng chẳng biết được, cũng chẳng thể đắc”.

Mũ giáp vô địch ấy còn gồm cả thệ nguyệnhồi hướng, nghĩa là gồm cả những yếu tố của con đường Bồ-tát:

Chúng tôi dùng ánh sáng
Sẽ ở trong mạt thế
Vì các người cầu pháp
Mà làm lợi ích lớn.
Chúng tôi phát thệ nguyện
Sẽ ở trong mạt thế
Vì tất cả chúng sanh Hộ trìkiến lập.
Chúng tôi nơi nước pháp
Thệ nguyện uống trọn hết
Mà với pháp môn ấy
Sẽ làm người thủ hộ
. “

Chúng tôi đem thiện căn này hồi hướng cho tất cả chúng sanh…”. Chính vì lời nguyện bổn nguyện đại bi với vô biên chúng sanh mà Bồ-tát ở lại thế gian, vì nếu khônglời nguyện đại bi, mũ giáp tánh Không sẽ phá hủy tất cả thế gian và Bồ-tát sẽ hoàn toàn thoát khỏi ba cõi:

“Lúc Bồ-tát mặc đại mũ giáp, nếu chẳng dùng từ bi hỷ xả soi khắp chúng sanh, chẳng yêu chúng sanh như mình, thì mũ giáp ấy cả đại địa chẳng chịu đựng nổi, tất cả chúng sanh chẳng thân cận được. Vì thương xót tất cả chúng sanh mà các Đại Bồ-tát mặc đại mũ giáp, có thể dùng mũ giáp gia trì cho địa giới và thủy, hỏa, phong giới, làm cho địa giới này chẳng nghiêng đổ, tất cả chúng sanh khỏi kinh sợ, lại có thể làm cho thủy giới, hỏa giớiphong giới tùy theo chỗ thích ứngphát khởi hiệu năng”.

Tóm lại, mũ giáp của Bồ-tát là tánh Không hợp nhất với đại bi vậy. 

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo năm 2017 | Số 276 ngày 1-7-2017
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 48)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(View: 60)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(View: 91)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(View: 103)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(View: 150)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(View: 149)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(View: 174)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(View: 649)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(View: 536)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiên và xã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(View: 551)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(View: 531)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(View: 590)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(View: 570)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(View: 557)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn Độ là Bà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(View: 523)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(View: 522)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(View: 514)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(View: 584)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(View: 558)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(View: 598)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(View: 558)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(View: 593)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(View: 573)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(View: 532)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(View: 565)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(View: 575)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(View: 776)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(View: 513)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 423)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(View: 512)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(View: 517)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(View: 532)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(View: 522)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(View: 494)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(View: 476)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(View: 436)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(View: 686)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(View: 458)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(View: 436)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(View: 471)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(View: 509)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(View: 533)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(View: 456)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(View: 515)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(View: 513)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(View: 512)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(View: 550)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(View: 568)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(View: 631)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM