Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Học So Với Hành Thiền

12 Tháng Chín 201704:47(Xem: 5530)
Tu Học So Với Hành Thiền

TU HỌC SO VỚI HÀNH THIỀN
Hai yếu tố này bổ sung hay cạnh tranh với việc tu tập?

Gyalten Deying -  Võ Thư Ngân 

 Tu Học So Với Hành Thiền

Đối với một người quan tâm đến thành tựu giác ngộ thì việc tu học có quan trọng hay không? Một số dòng truyền thừa đặt nặng việc hành thiền hơn tu học, và nói rằng không cần thiết phải tu học, vì điều này chỉ khiến tâm tràn đầy tư tưởng, và tư tưởng thì không phải là thiền. Tạp chí Mandala đã chọn lựa và trưng cầu ý kiến cùng sự quan sát của một số lạt ma, học giảhành giả.

 

Chúng tôi bắt đầu với Nick Ribush nói chuyện với Choden Rinpoche, để xin Ngài ban cho lời khuyên uyên bác. Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, là người có kỷ lục tu học oanh liệt vào thời trẻ, và sau đó, ngài đã nhập thất trong 19 năm. 

 

Choden Rinpoche: Quá trình được đề ra là trước hết, lắng nghe giáo pháp, rồi tư duy về những gì con đã nghe, rồi thiền quán về những điều này. Vì vậy, điều quan trọng lúc đầu là đi tìm một vị thầy uyên bác để tu học với vị này; rồi phân tích bất kỳ điều gì con đã nghe bằng biện chứng hợp lý, đó là việc tư duy; rồi chú tâm nhất điểm vào những điều con đã thiết lập sau quá trình phân tích, điều mà trong bối cảnh này gọi là hành thiền. Thế thì ba điều này phải đi theo thứ tự: văn, tư, tu. Cả hai vị Phật, Đức Thích Ca Mâu NiĐức Di Lặc đều nói như vậy.

 

Nick Ribush: Thế thì nếu không có cả hai yếu tố tu học và hành thiền, chúng ta không thể đạt được giác ngộ, phải không ạ?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con đã học hỏi. Nếu không làm như vậy thì những gì con đã học sẽ không giúp ích gì cho tâm mình.

 

Nick Ribush: Xin cảm ơn Rinpoche. Trước tiên, chúng ta nên lắng nghe những giáo pháp gì?

 

Choden Rinpoche: Điều này còn tùy vào hình thức tu học mà con dự định sẽ thực hiện. Nếu đó là chương trình tu học sâu rộng thì con nên theo gương của chư Tăng trong các tu viện lớn của Sera, Drepung và Ganden, nơi mà các Thầy nghiên cứu năm môn học chính [Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), triết lý Trung đạo (Madhyamaka), Lượng học (pramana), A tỳ đạt ma (abhidharma) và giới luật (vinaya)] qua nhiều năm, hay thậm chí suốt đời. Ở mức độ tu học trung bình thì con có thể chú trọng vào những tác phẩm như Bồ Tát Hạnh (Guide to the Bodhisattva's Way of Life) của ngài Tịch Thiênluận giải về sách này, cũng như Toát Yếu Tu Tập (Compendium of Training). Nếu không có nhiều thời giờ thì con có thể nghiên cứu Lam-rim.

 

Nick Ribush: Hành thiền có phải là một phần trong việc đào tạo chư Tăng tại các tu viện lớn, theo sau chương trình tu học lâu dài không?

 

Choden Rinpoche: Việc hành thiền không phải là một phần của chương trình tu học chính quy, nhưng có những vị sư vừa tu học, vừa hành thiền. Họ thiền quán về những gì họ đã học, học và hành nên đi đôi với nhau. Ban ngày, chư Tăng học thuộc lòng, rồi trì tụng những gì họ đã học thuộc lòng vào buổi chiều, và sau đó, thiền quán về những gì họ đã học vào buổi tối. Đa số các tu việnluật lệ là sau khi vị sư quản giáo kỷ luật đã ra dấu hiệu vào buổi tối thì mọi người sẽ phải ngưng trì tụng, để không làm phiền những nhà sư đang hành thiền. Thậm chí, họ không được mang giày khi đi lại. Vậy là tuy việc hành thiền không phải là phần bắt buộc hay thuộc về chương trình tu học, nhưng chư Tăng được khuyến khích hành thiền, và tu viện cũng tạo ra điều kiện thuận lợi để họ có thể hành thiền.

 

Nick Ribush: Các tu viện lớn có các bậc thầy là thiền giả hay hành giả du già (yogi) để hướng dẫn chư Tăng hành thiền hay không?

 

Choden Rinpoche: Có, và bất cứ điều gì chư Tăng được dạy là để nhắm vào việc hành thiền. Họ học hỏi về tánh Không là để thiền quán về đề tài này, về thiền chỉ là để hành thiền, vân vân…

 

Nick Ribush: Tuy nhiên, những người có công việc, gia đình và không có nhiều thời gian thì nên chú trọng vào Lam-rim?

 

Choden Rinpoche: Đúng, nhưng ngay cả sách Lam-rim cũng có bộ dài, bộ trung bình và bộ ngắn, và những ai có công việc và gia đình thì có thể gặp khó khăn với những bộ dài hơn. Những bộ Lam-rim ngắn như Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay (Liberation In The Palm Of Your Hand), Đường Tu Nhanh Chóng (Swift Path), hay Đường Tu Cực Lạc (Blissful Path), có thể thích hợp với những người có ít thời giờ.

 

Nick Ribush: Những người bận rộn nên thiền quán như thế nào về tác phẩm Lam-rim mà họ đã học hỏi?

 

Choden Rinpoche: Họ phải dành thời giờ để hành thiền và tu tập. Ở Tây Tạng thì không có thời gian dành riêng cho công việc. Người ta tự sắp xếp giờ giấc sinh hoạt và dành một thời gian dài hay ngắn cho mọi việc, tùy theo ý muốn. Họ có thể tu tập một vài tiếng vào buổi sáng, trước khi đi làm, nhưng ở đây, các con phải đi làm đúng giờ giấc theo ý muốn của cấp trên, nên phải sắp xếp thời gian theo cách tốt nhất, ví dụ như tu tập một tiếng trước giờ đi làm và một tiếng sau khi tan sở.

 

Nick Ribush: Những người tu tập như vậy có thể nào có thực chứng hay không?

 

Choden Rinpoche: Có thể chứ. Nếu như tu tập liên tục thì con sẽ ngày càng quen thuộc hơn với pháp tu đó, và hành thiền rất dễ dàng. Nhờ vậy mà con có thể có chứng ngộ.

 

Nick Ribush: Những người tu tập Lam-rim theo cách như vậy thì nên sắp xếp bài thiền quán như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Chẳng hạn như con khởi đầu với bài thiền quán về kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời giờ hơn cho đề mục này, rồi dùng ít thời giờ cho toàn bộ những đề mục khác. Làm như vậy thì con có thể thiền quán toàn bộ đường tu. Khi đã quen thuộc với đề mục kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời gian cho đề mục kế tiếpvô thường và cái chết, rồi bỏ ít thời giờ cho mỗi một đề mục còn lại. Sau đó, khi đã quen thuộc với đề mục thứ nhì thì hãy chuyển sang đề mục kế tiếp. Tuy nhiên, trước khi thiền quán về Lam-rim thì nên hành trì các pháp tu sơ khởi, để tịnh hóa tâm mình và tích tập công đức.

 

Nick Ribush: Làm sao mà kiến thức sách vở trở thành vô niệm? Tâm sẽ chuyển hóa như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Phải mất một thời gian dài thì tâm mới trở thành vô niệm. Đối với phàm nhân thì nhận thức vô niệm duy nhất là các thức của ngũ quan. Ý thức thì chủ yếu là vọng niệm. Chúng ta biết được những điều mà mình biết là nhờ nhận thức bằng suy luận: “Nó như vầy là vì nó như thế kia.”. Điều này cũng là vọng niệm.

 

Nick Ribush: Một số người nói rằng nên dừng tâm vọng niệm và cứ để cho tâm nghỉ ngơi trong trạng thái vô niệm. Điều này có sai không?

 

Choden Rinpoche: Có lẽ một số người nói như thế, nhưng khi nghiên cứu những tác phẩm Phật học lớn, các kinh điểnluận giải thì nó không phải như vậy. Chỉ vì niệm tưởng đã ngưng, không có nghĩa là tâm con đã trở thành vô niệm. Khi thực hành thiền định thì con sẽ chú tâm vào một đối tượng. Khi đó, đúng là con không được suy nghĩ bất cứ điều gì, mà phải ngưng mọi niệm tưởng, ngay cả các niệm thiện, bởi vì chúng cũng quấy nhiễu định tâm của mình, nhưng khi làm được như vậy thì không có nghĩa là tâm con đã trở nên vô niệm.

 

Nick Ribush: Thưa Rinpoche, khi hành thiền ở Lhasa suốt bao nhiêu năm trời thì ngài đã tu tập pháp thiền nào?

 

Choden Rinpoche: Tôi ở trong ngôi nhà đó hơn 20 năm, nhưng không liên tục hành thiền. Tôi đã trì chú, hành thiền chút ít và tu tập các pháp tu khác, nên không có thực chứng về đại định hay bất cứ điều gì tương tự như vậy. Nếu muốn có thực chứng về đại định thì phải tìm một nơi thích hợp để hành thiền. Ngôi nhà ấy không phải là nơi thích hợp, vì tôi không biết khi nào thì công an Trung Quốc sẽ đến nhà. Họ sẽ đến một cách bất ngờ vào bất cứ lúc nào, ngày hay đêm, không hề báo trước, nên tôi luôn luôn có sự nghi ngờ, “Khi nào thì họ tới? Họ sẽ làm gì đây?”, nên tâm trí không đủ thư thả để chú tâm vào đối tượng 100%, vì nếu muốn chứng ngộ đại định thì phải làm được như vậy.

 

Nick Ribush: Ngài có điều gì để nói thêm về mối quan hệ giữa tu học và hành thiền không, thưa Rinpoche?

 

Choden Rinpoche: Nếu muốn hành thiền thì điều quan trọng là phải nghiên cứuhọc hỏi. Nếu không học hỏi thì không có cách nào để hành thiền. Tùy ý con muốn học hỏi nhiều, học vừa phải hay chút ít thôi, nhưng khi thực hành bất cứ pháp thiền nào, dù là thiền quán hay thiền định thì con phải biết mình sẽ thiền về cái gì. Nếu như không biết đối tượng thiền thì không có cách nào để hành thiền về nó, và nếu cố làm như vậy thì con sẽ giống như người mà Đức Sakya Pandita mô tả: người cụt tay đi leo núi. 

 

Nick Ribush: Vậy thì chúng ta không thể đạt giác ngộ, nếu như không thực hiện cả hai việc tu học và hành thiền?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con học hỏi. Nếu không thì những gì học được sẽ không giúp ích cho tâm con bao nhiêu. Đúng là một vài vị thầy ở Tây Tạng và những nơi khác nói rằng con không cần tu học, chỉ cần hành thiền thôi. Họ cho rằng những người tu học chỉ hiểu biết các pháp như cách một người ăn xin biết đến của cải, trong khi những ai hiểu biết nhờ hành thiền thì giống như những người giàu sang, có của cải. Tuy nhiên, văn, tư, tu rất quan trọng. Cả ba yếu tố nên được phối hợp với nhau, bởi vì chúng bổ sung cho nhau.

 

Choden Rinpoche được phỏng vấn tại Trung Tâm Kurukulla, Massachusetts, ngày 19 tháng 11, 2004. Thubten Damchoe thông dịch và Nick Ribush hiệu đính.

 

 

CHODEN RINPOCHE

 

Sinh năm 1931 ở miền Đông Tây Tạng, Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, lúc 3 tuổi đã được thừa nhận là vị tái sinh của Choden Rinpoche đời trước, người đã từng là một ứng viên cho việc chọn lựa Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 12. Khi lên tám, ngài tu họcTu Viện Rabten, và năm 15 tuổi, ngài gia nhập Tu Viện Sera Je, nơi ngài đã tu học năm kinh sách chính.                                                                                                                                                                      Dù Rinpoche đã học xong lớp Lharam và có thể trở thành một Geshe, nhưng sư phụ của ngài bảo ngài khoan dự kỳ thi. Choden Rinpoche quyết định nghiên cứu giáo pháp về Giới luật (vinaya), và ngài được xem là một trong những học giả uyên bác về môn học này. Choden Rinpoche là một trong hai vị lạt ma của Sera Je được tuyển chọn để biện kinh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong kỳ thi tốt nghiệp văn bằng Geshe của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

Trong thời gian Cộng sản Trung Hoa chiếm Tây Tạng năm 1959, Choden Rinpoche sống ở Tây Tạngnhập thất 19 năm. Ngài không bao giờ ra khỏi gian phòng nhỏ bé và tối tăm ở Lhasa, từ 1965 đến 1985, và vì lý do này, hoàn toàn không được biết đến ở tu viện của mình. Năm 1985, ngài được phép rời Tây Tạng để đến Ấn Độ, và từ đó, đã giảng dạy hàng ngàn tăng sinh ở Tu Viện Sera Je tại Nam Ấn qua nhiều năm. Với lời thỉnh cầu của Lama Zopa Rinpoche, hiện nay, Choden Rinpoche đã viếng thăm các nước Tây phương một vài lần để hoằng pháp và hướng dẫn các khóa nhập thất.

 

Nguyên tác Anh ngữ: Tạp chí Mandala tháng 2/tháng 3, 2005

Gyalten Deying chuyển Việt ngữ; Võ Thư Ngân hiệu đính

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 93)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 111)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 112)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 212)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 234)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 265)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 243)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 265)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 347)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 312)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 307)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 289)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 329)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 323)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 262)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 213)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 251)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 266)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 356)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 417)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 432)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 423)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 406)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 417)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 688)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 641)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 929)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 512)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 757)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 578)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 575)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 462)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 579)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 548)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 730)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 519)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 901)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 647)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 642)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1072)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 744)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 638)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 944)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 599)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 722)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 700)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 678)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 700)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 693)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 586)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant