Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo

22 Tháng Mười Một 201705:55(Xem: 6943)
Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo
DANH HIỆU ĐẠI SĨ AVALOKITEŚVARA TRONG TỊNH ĐỘ GIÁO[1]

Phước Nguyên

Danh Hiệu Đại Sĩ Avalokiteśvara Trong Tịnh Độ Giáo


Trong các nước thuộc truyền thống Phật giáo Bắc truyền, có một vị Bồ-tát thường được gọi là Quan Âm hay Quán Âm. Vị Bồ-tát biểu tượng cho thể tính đại bi hay tình yêu phổ quát, được sùng bái rất thịnh hành trong các giới Phật tử. Vậy nguồn gốc danh hiệu, yếu chỉ tu tậphành đạo, cùng các đặc điểm hành nguyện của vị Bồ-tát này như thế nào?

Trước khi trình bày về yếu chỉ hay cương lĩnh tu tậphành đạo của Bồ-tát Avalokiteśvara, cần giải thích một số ý nghĩa về mục từ: Quán Tự Tại, Quán Thế Âm, Phổ Môn và một số từ ngữ khác.


Tiết 1
. Danh hiệu Quán Tự Tại

1.Từ nguyênnhận định

Chữ Quán Thế Âm, hay Quán Tự Tại, tiếng Sanskrit Avalokiteśvara, Avalokitasvara, Tây Tạng dịch là Spyan-ras gzigs dban-phyug.

Phân tích ngữ học của từ Avalokiteśvara (danh từ, số ít):

Avalok: phân từ quá khứ, thể thụ động, có nghĩa là ‘để xem xét’, do Ava tiếp đầu ngữ: bên dưới, xung quanh;

Lokita, phân từ quá khứ của động từ căn √lok: quán sát, nhìn ngắm, v.v.. dùng ở thì hiện tại, dạng bất quy tắc của ngữ pháp Sanskrit; ita viết riêng là tiếp vĩ ngữ.

Avalokita: là động từ chuyển thành danh từ có nghĩa là người nhìn xuống.

Īśvara: danh từ, giống cái, số ít, biến cách 1. Chủ thuộc, có nghĩa là Chúa tể, bậc Thầy.

Nên nghĩa đen của Avalokiteśvara là vị chúa tể về sự nhìn xuống và xung quanh, ý nói bậc Thầy về sự quán sát toàn diện.

Sự giải thích về ngữ nguyên của danh hiệu này có rất nhiều ý kiến khác nhau, chúng tathể tham khảo một vài nhận định:

 G.P. Malalasekera trong Encyclopedia of Buddhism, giải thích: “bậc tối caochúng ta có thể nhìn thấy được, sự hiện thể, hay có khả năng trông thấy ở bất kì nơi nào”[2].

  Mircea Eliade trong The Encyclopedia of Religion: “Avalokitésvara là từ Sanskrit phức hợp, thiết lập từ thành tố ‘avalokitā và ‘īsvara’, có nghĩa là đấng tối cao trông chờ nhìn thấy, hay vị chúa tể đang quán sát, đang nhìn ngắm.”[3]

  Har Dayal trong The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature giải thích: “Avalokitésvara nghĩa là “vị chúa tể có cái nhìn bi mẫn”, “đấng chúa tể của người đã khuất và đang khuất”, “vị chúa tể được nhìn thấy từ một điểm cao hơn”, hay “vị chúa tể nhìn xuống từ đỉnh cao”, “vị chúa tể đang nhìn ngắm”[4] v.v... Ông nói tiếp: “Người ta có thể loại suy rằng người Trung quốc biết đến dạng avalokitasvara mà về sau biến dạng thành avalokiteśvara, là do có sự lẫn lộn giữa hai từ lokesvaraavalokitasvara[5]

 Kenneth K.S. Ch’en trong Buddhism in China, giải thích: “Avalokitésvara, hình thành từ ‘avalo’, phân từ quá khứ, thể thụ động: được thấy, ‘īsvara’: vị chúa tể; Avalokitésvara: vị chúa tể có cái nhìn yêu thương, vị chúa tể nhân loại trong thấy,[6] v.v..”

  Sir Charles Eliot trong Hinduism and Buddhism giải thích: “Avalokita là một dạng khác của avalokitésvara, ám chỉ ‘vị chúa tể nhìn xuống’. Hoặc cũng gọi là Lokitésvara: ‘vị chúa tể của thế gian’”[7].

  Thomas Edward J. trong History of Buddhist Thought trình bày: “Avalokita là một trong hai danh hiệu của Avalokiteśvara, thiết lập từ động từ avalokayati: nhìn ngắm hay quán sát... Dạng ‘avalokita-svara’ được dùng bởi một số dịch giả Trung quốc, nhưng thật ra, trong tiếng Sanskrit nó không hề có một ý nghĩa nào cả và cả đến trong tiếng Trung quốc cũng vậy”[8].

 Lokesh Chandra trong Thousand-Armed Avalokitesvara: “Chữ ‘avalokita’ đã xuất hiện trong tác phẩm Bodhicaryāvatāraḥ của Śāntideva,... Từ avalokita chính là phát xuất từ avalokitesvara, xuất hiện lần đầu tiên trong bản kinh Sanskrit Sukhāvatīvyūha. Avalokitesvara bị ảnh hưởng tín ngưỡng śiva hay īsvara vào thời hậu kì và căn cứ trên quan điểm của N.D. Mironov[9] thì danh hiệu sớm nhất đọc bằng tiếng Sanskrit phải là avalokita-svara”.

Theo ý kiến của chúng tôi, những nhận địnhgiải thích của các học giả dẫn ở trên chỉ nên tham khảo, vì nó có tính cách mơ hồ, vấn đề này sẽ được bàn thảo chi tiết ở một chương khảo luận khác, vì nó không phải là mục tiêu nghiên cứu của chương này.

II. Phiên dịchgiải thích trong Hán tạng

Trong Đại Tạng Kinh chữ Hán, có thể tìm thấy rất nhiều phiên âm khác nhau của từ Avalokiteśvara, đại khái như:

A bà lô kiết đế thước bát ra 阿婆盧羯帝爍鉢囉,

A bà lô cát đế thất phật ra 阿 婆盧吉帝室佛囉,

A bà lô kiết đế thước bàn ra 阿婆盧羯帝爍皤囉,

A bà lô cát đế xá bà la 阿婆 盧吉帝舍婆羅,

A phược lô chỉ đế thấp phạt ra 阿縳盧枳坁濕伐囉,

A phược lô chỉ đế y thấp phạt la 阿縳盧枳坁伊濕伐羅,

A phược lô chỉ đa y thấp phiệt la 阿縳盧枳多伊濕筏羅,

A phạ lô chỉ đế thấp phạt la 阿嚩盧枳帝濕伐羅,

A phạ lô chỉ đế thấp phạ ra 阿嚩盧枳帝濕嚩囉,

Bô lô kiết đế nhiếp phạt la 逋盧羯底攝伐羅,

Ái lâu hoàn 廅樓亘 v.v…  

Tạm thời, căn cứ trên từ Avalokiteśvara, đa phần các học giả hiện đại đều chấp nhận rằng nó được phiên dịch sang rất nhiều từ Hán khác nhau, như:

 Quang Thế Âm 光世音 (Trúc Pháp Hộ dịch, Chánh Pháp Hoa Kinh 10, phẩm 23)[10].

  Quán Tự Tại 觀自在 (Huyền Tráng dịch, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh)[11].

 Quán Thế Âm 觀世音 (Cưu-ma La-thập dịch, Diệu pháp liên hoa kinh, phẩm 25)[12].

 Quán Thế Tự Tại 觀世自在 (Bồ-đề lưu chi dịch, Thâm mật giải thoát kinh, phẩm 10)[13].

 Quán Thế Âm Tự Tại 觀世音自在 (Bất Không dịch, Đại từ đại bi cứu khổ Quán Thế Âm Tự Tại vương Bồ-tát quảng đại viên mãn vô ngại tự tại thanh cảnh đại bi tâm đà la ni )[14].

 Khuy Âm 闚音 (Chi Khiêm dịch, Phật thuyết vô lượng môn vi mật trì kinh)[15]

 Hiện Âm Thanh 現音聲 v.v..

Về nguyên ngữ, trong các thủ bản Sanskrit hiện còn đều phổ thông viết là Avalokiteśvara. Theo giải thích của Huyền Tráng trong Tây vực ký 3[16]:

阿縛盧枳低濕伐羅菩薩像. 唐言觀自在. 合字連聲,梵語如上;分文散音,即阿縛盧枳多譯曰觀,伊濕伐羅譯曰自在. 舊譯為光世音,或云觀世音,或觀世自在,皆訛謬也.

"Hình tượng A-phược-lô-chỉ-đế-thập-phạt-la Bồ-tát, Đường dịch là Quán Tự Tại. Do dính chữ liền âm nên tiếng Phạn nói thế. Nếu tách rời âm thì A-phược-lô-chỉ-đa (Avalokita) dịch là Quán; Y-thấp-phạt-la (Īśvara) dịch là Tự Tại. Cựu dịchQuang Thế Âm, Quán Thế Âm hay Quán Thế Tự Tại đều là sai cả".

Để tránh giải thích lầm lẫn, cần phân biệt hai chữ Sanskrit khác nhau mà Hán đều dịch là Tự Tại自在, đó là vaśitā (tự chủ, tự do, thoải mái) và īśvara (vị chúa tể, bậc Thầy lão luyện).

Điều đáng lưu ý ở đây là trong các sớ giải Hán tạng, thường không quan đến đến nguyên gốc Sanskrit của từ Quán Tự Tại là gì, dẫn đến xuất hiện một số giải thích về chữ Quán Tự Tại có nghĩa là quán sát tự do tự tại, quán chiếu một cách tự chủ thoải mái. Đó là giải thích theo cách chiết tự chữ Hán, chứ không phải theo ý nghĩa và cấu trúc ngữ pháp Sanskrit, bởi vì chữ īśvara nó là danh từ ở biến cách thứ nhất, nên phải được hiểu là: Đấng Chúa Tể hay Bậc Thầy lão luyện (về sự quán sát), chứ không thể hiểu như động từ hay hay tĩnh từ chỉ sự tự do thoải mái. So sánh với bản kinh Pháp hoa Tây Tạng, cũng thấy dịch là Spyan ras gzigs kyi dbang phyug: chúa tể của sự nhìn ngắm.

Chữ īśvara, Huyền Tráng dịch là “Tự Tại” không hàm nghĩa tự chủ hay tư do, mà nó có sự liên hệ với cách dịch của chữ Đại Tự Tại ThiênMaheśvara. Chữ īśvara từ trong Vệ-đà và văn cổ Sanskrit, được quan niệm là đấng có quyền năng, quyền lực, tức chỉ cho một hữu thể tối thượng, một linh hồn tối cao tồn tại như là một tự ngã (ātman). Về sau này, Maheśvara được giải thích là đấng chúa tể của thế giới.

Vì vậy, chữ Īśvara trong Avalokiteśvara hay chữ Tự Tại trong Quán Tự Tại cũng có nghĩa là chúa tể, nhưng không hàm nghĩa Đấng ngự trị thế giới như Đại Tự Tại Thiên, mà là chúa tể về sự chiêm nghiệm những phiền não của tự thân để diệt trừquán sát những nỗi khổ niềm đau của chúng sinh để đồng hành và đưa họ vượt qua giai đoạn hiểm nghèo của cuộc đời, thực hành như vậy gọi là đấng viên mãn Bồ-đề hành và Bồ-đề nguyện, thành tựu Chánh trí Bồ-đề tâm, như thế được mệnh danh là Chúa tể của sự quán sát.

Tiết 2. Danh hiệu Quán Thế Âm

blankTrong Đại đường Tây vực kí, Ngài Huyền Tráng căn cứ trên gốc Sanskrit Avalokiteśvara, để phủ định cách dịch Avalokiteśvara thành chữ Quán Thế Âm điều này là hoàn toàn có lý. Nhưng để nói chữ Quán Thế Âm là một chữ ngụy tạo, hay không có nguồn từ Sanskrit thì cách nói này không chính xác.

Theo như báo cáo Mironov's readings from Central Asian mss của Nalinakṣa Dutt[17], thì tả bản cổ Quán Thế Âm Bồ-tát phổ môn phẩm phát kiến ở Tân cương ghi là Avalokitasvara. Từ này có thể dịch sát là Quán Âm, nghĩa là âm thanh (svara) được quán sát.

Nhưng trong bản dịch Pháp hoa của Cưu-ma-la-thập, danh hiệu này được dịch là Quán Thế Âm. Có thể đó là dịch ý từ đoạn văn sau đây trong phẩm Phổ môn, bản dịch của La Thập:

"若有無量百千萬億眾生受諸苦惱. 聞是觀世音菩薩. 一心稱 名. 觀世音菩薩即時觀其音聲皆得解脫".[18]

 “Nếu có vô lượng trăm nghìn các chúng sinh chịu đựng các thứ khổ não, khi nghe đến Quán Thế Âm Bồ-tát này, nhứt tâm xưng danh, Quán Thế Âm bồ tát tức thì quán âm thanh ấy mà đều được giải thoát.”[19]

Đoạn này, trong bản Sanskrit kinh Saddharmapuṇḍarīka hiện còn, đọc như sau:

yāvanti sattvakoṭīnayutaśatasahasrāṇi yāni duḥkhāni pratyuanubhavanti, tāni sacedavalokiteśvarasya bodhisattvasya mahāsattvasya nāmadheyaṃ śṛṇuyuḥ, te sarve tasmādduḥkhaskandhād parimucyeran[20].

“Nếu có hàng trăm nghìn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ chúng sinh chịu đựng các thứ khổ não, nếu chúng sinh nghe được danh hiệu của bồ tát Avalokiteśvara, tất cả chúng sinh do đó được giải thoát khỏi khối lớn đau khổ”.

So sánh hai bản Sanskrit và Hán trên, chúng ta thấy trong bản Sanskrit không có từ nào ám chỉ nào về sự "Quán sát âm thanh của thế gian", rõ ràng như bản Hán của La-thập.

Các giải thích Trung quốc, tiêu biểu như Pháp hoa văn cú 10, Pháp hoa nghĩa sớ 12 (Cát Tạng), Hoa nghiêm thám huyền ký 19, Pháp hoa huyền tán 10 (phần cuối) đều căn cứ trên quan điểm truyền thừa bởi La-thập. Tựu trung các sớ giải Pháp Hoa Hán tạng, thường giải thích Quán Thế Âmhai nghĩa:

- Đối với dụng công tu tập: Trong sáu giác quan, Ngài dùng thính giác để tu tập, lắng nghe tất cả âm thanh của thế gian, nhưng không khởi lên cấu trúc sai lầm (hư vọng phân biệt), không bị âm thanh của thế gian làm tháo động, lại còn có năng lực lắng nghe thể tính cá biệt của chính mình, thuật ngữ chuyên môn gọi là: “phản văn, văn tự tánh”, thành tựu nhĩ căn viên thông, vì vậy, gọi là Quán Thế Âm.

- Đối với tùy duyên hóa độ: Đại sĩ vì đã thể chứng phẩm tính Đại bi, nên đối với hết thảy chúng sanh ngài trải tình yêu phổ quát đến họ. Bất cứ ai, trong cơn khổ đau, chết chóc nguy khốn mà nhất tâm tôn kính hoặc hành trì danh hiệu của Ngài, thì ngài sẽ làm nơi nương tựa cho các chúng sinh ấy như vầng nhật nguyệt phá tan hắc ám, ngài luôn trụ nơi bản nguyện đại bi, tùy thuận duyên sinh-nghiệp quả, để cứu thoát chúng sinh trong đêm dài sinh tử, nên gọi là Quán Thế Âm.

Vậy thì, chỉ danh hiệu Quán Thế Âm cũng biểu hiện rõ ràng hành vinguyện lực của ngài.


Tiết 3. Quang Thế Âm,
 Khuy Âm, Hiện Âm Thanh

Về nguồn gốc cách dịch là Quang Thế Âm 光世音 của ngài Trúc Pháp Hộ trong kinh Chánh pháp hoa 10:

此族姓子,若有眾生,遭億百千姟困厄患難苦毒無量,適聞光世音菩薩名者,輒得解脫無有眾惱,故名光世音. 若有持名執在心懷,設遇大火然其山野,燒百草木叢林屋宅,身墮火中,得聞光世音名

“Này người con trai dòng tộc cao quý! Hàng trăm ngàn vạn ức chúng sinh chịu vô lượng khốn khổ, ách nạn, tai họa, khó khăn, nguy hiểm mà lại nghe được danh hiệu của đức Quang Thế Âm Bồ-tát, liền được giải thoát khỏi không còn khổ não cho nên gọi là Quang Thế Âm.”[21]

Danh hiệu Quang Thế Âm trong đoạn cho kinh trên cho thấy nguyên văn tiếng Sanskrit của danh hiệu này ở đây được đọc là Abhālokasvara hoặc Abhālokitasvara, hoặc Abhālokiteśvara, trong đó từ đồng ngữ ava: dưới thấp, chung quanh được gọi là abhā: ánh sáng.

Những dịch nghĩa khác như Khuy âm: Âm thanh được liếc nhìn đến và Hiện âm thanh: âm thanh được thấy, đều cho thấy rõ ràng nguyên tiếng Sanskrit là Avalokitasvara.

Khi kinh Thủ lăng nghiêm giới thiệu công hạnh tu chứng của ngài do tu tập nhĩ căn viên thông, chứng tỏ danh hiệu của ngài được còn được đọc là Avalokitasvara thay vì Avalokiteśvara[22].


Tiết
4. Thí vô úy giả

Bồ-tát Quán Tự Tại, còn được tôn xưng là vị ban cho sự an ninh, không sợ hãi, là nơi trú ẩn an ổn. Chữ Hán Thí vô úy giả 施無畏者 là dịch ngữ của từ Sanskrit Abhayadada hay Abhayadāna. Tây Tạng gọi là Mi hjigs sbyin. Hán phiên âm là A bà diễn đà đà 阿婆演駄駄, A ba diên đà noa 阿波延陀拏, A bội diên na na 阿佩延娜娜.

Danh hiệu này được tìm thấy trong kinh Saddharmapuṇḍarīka, phẩm 24. Samantamukha chép:

eṣa kulaputra avalokiteśvaro bodhisattvo mahāsattvo bhītānāṃ sattvānāmabhayaṃ dadāti | anena kāraṇena abhayaṃdada iti saṃjñāyate iha sahāyāṃ lokadhātau.[23]

Này người con trai của gia đình hiền thiện, vị Bồ-tát Đại Sĩ Avalokiteśvara ấy ban sự an ninh đến cho các chúng sinh đang lo lắng, do đó trong thế giới Sa-ha này, vị ấy được gọi là Đấng ban cho an ninh.

Kinh Diệu pháp liên hoa 7, phẩm 25. Phổ môn, bản dịch chữ Hán của La Thập:

是觀世音菩薩摩訶薩. 於怖畏急難之中能施無畏. 是故此娑婆世界. 皆號之為施無畏者[24].

Trong nỗi kinh hoàng, trong cơn nguy cấp, trong sự hoạn nạn, Quan Âm đại sĩ có thể cho người sự không sợ hãi, nên thế giới hệ Kham nhẫn này ai cũng tôn xưng là Người cho sự không sợ[25].

Chữ abhayaṃ: không chỉ là vô úy 無畏: không sợ hãi theo như Hán dịch, mà còn có nghĩa là sự an ninh, sự an ổn, nơi trú ẩn. Ban cho sự không sợ hãian ninh, không chỉ về thể chất mà còn cả tinh thần, giúp họ vượt qua những rủi ro nguy khốn, vì lẽ “Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo tác…”, có như thế mới xứng đáng được gọi bậc đã tác thành phẩm chất Abhayadada.

Vì vậy, ngài được tôn xưng là “Thí vô úy giả” là từ nơi bản nguyện độ sinhthiết lập danh hiệu, từ nơi phẩm tính mà thành tựu danh xưng.  

 



[1] Chương 1 này trích từ tác phẩm Đại sĩ Avalokiteśvara vị toàn diện và các biến thể, Phước Nguyên.

[2] G.P. Malalasekera, Encyclopaedia of Buddhism (1961). [Colombo]: Government of Ceylon, vol. ii, p.407. DOI: 10.1017/S0041977X00064107.

[3] Mircea Eliade, The Encyclopedia of Religion (1987). New York: Macmillan; London: Collier Macmillan, vol. ii, tr.11ff.

[4] Har Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature. (1932). London: Kegan Paul, Trench, Trübner & Co., Ltd., p. 47. DOI: 10.1017/S0035869X00154061.

[5] Ibib., tr. 48.

[6] Kenneth K.S.Ch’en, Buddhism in China (1964), Princeton University Press, New Jersey, USA, tr.346.

[7] Sir Charles Eliot, Hinduism and Buddhism: an historical sketch (1971), Vol. ii, Routledge & Kegan Paul, LTD, London, p.13.

[8] Thomas Edward J., History of Buddhist Thought (1934), London: Kegan Paul, Trench, Trübner and Co., p. 189, DOI: https://doi.org/10.1017/S0041977X00138509.

[9] Xem tiết 2. Danh hiệu Quán Thế Âm, bên dưới.

[10] T09n0263, tr. 0128c27.

[11] T08n0251, tr. 0848c07

[12] T09n0262, tr. 0056c04

[13] T16n0675, tr. 0680a19.

[14] T20n1113B, tr. 0498c07.

[15] T19n1011, tr. 0680b13.

[16] T51n2087, tr. 0883b22ff.

[17] Nalinakṣa Dutt, Saddharmapundarikasutram, N.D. Mironov's readings from Central Asian mss (1953), tr. 286.

[18] T09n0262, tr. 0056c05.

[19] Trưởng lão Trí quang dịch: “Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô tận Ý, thiện nam tử, vô số chúng sinh bị mọi sự đau khổ, nghe nói đến Quan Âm đại sĩ mà một lòng trì niệm danh hiệu của ngài, thì đại sĩ tức khắc nghe thấy âm thanh ấy và họ được thoát cả.”  trích Pháp hoa tập 2 (1994), tr. 898-899.

[20] Saddhp, tr. 250.

[21] T09n0263, tr. 0128c24

[22] Cf. T19n0945, 0128b15 ff.

[23] Saddh., tr. 252.

[24] T09n0262, tr. 0057b22.

[25] Trưởng lão Trí quang dịch, Pháp hoa tập 2 (1994), Xí nghiệp in Gia định, tr. 908.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 337)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 621)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 667)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 709)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 960)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 827)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1076)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1060)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1121)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1398)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 966)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 946)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 971)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1141)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1171)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1397)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1386)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 979)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1373)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1251)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant