Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Giáo Là “khoa Học Tâm Linh”

11 Tháng Giêng 201805:06(Xem: 6503)
Phật Giáo Là “khoa Học Tâm Linh”

PHẬT GIÁO LÀ “KHOA HỌC TÂM LINH”


(Jason Gots, chuyển Việt ngữ: Thích Nữ Đức Trí & Thích Nữ Giới Hương)

tu tap

 

“Đạo Phật nhấn mạnhtu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”.

(Thích Nhất Hạnh, Trái Tim Của Bụt)

Ý Tưởng lớn là gì?

Tôi đã có thể dự đoán những lời phê bình. Khoa học thì nói về kinh nghiệm được thực chứng khách quan. Trong khi đó, Thiền Phật giáo, là nói về bạn, sự trải nghiệm chủ quan của riêng bạn trong tâm trí của chính bạn. Tất cả những điều đó có thể gọi là “chứng nghiệm” cho những tác động tích cực của trạng thái thiền, về khả năng vô tận của tâm thức con người như an lạc, từ bi và định tĩnh, vv…

Tạm để các khía cạnh “tinh thần” của giáo pháp sang một bên, khoa học thần kinhnhận thức đã chú ý đến phương pháp thiền trong thời gian gần đây. Trong lúc các đề tài nghiên cứu như vậy đang tạo nên một luồng tranh cãi trong cộng đồng khoa học, thì ngày càng có nhiều sự đồng thuận rằng việc thực hành thiền định liên tục có thể làm thay đổi cấu trúc não bộ và phát triển khả năng nhận thức.

Đó là những giai đoạn đầu của nền khoa học thần kinh về thiền định, nhưng Kadam Morten, một vị giáo thọ trong truyền thống Phật Giáo New Kadampa, biện luận rằng Đức Phật (Cồ Đàm – Bậc đã sống ở Ấn Độ khoảng chừng 2500 năm về trước) là vị sáng lập “nền khoa học tâm linh”, việc thực hành Thiền Phật giáo (lặp lại lời của Đức Geshe Kelsang – người sáng lập New Kadampa), cho phép bất cứ ai cũng có thể quán chiếu tự ngã với “những vọng tưởng” của sân giận, ganh tị, và chấp trước, những trạng thái này chiếm ưu thế trong đời sống tỉnh thức của chúng ta như từ bi, hỉ, xả.

Đây là “hướng tâm linh” đang hiện hữuPhật Giáo tin là sự trải nghiệm được thực chứng được thông qua tu tập, đây cũng là những nền tảng nổi bật của Phật Giáo để phân biệt với Chính Thống Vô Thần, đã phủ nhận sự tồn tại của bất kì chiều hướng nào.

Tầm quan trọng là gì?

Những khía cạnh này của Phật pháp được duy trì trong nhiều truyền thống khác nhau như lý duyên khởitính chất tương quan của các pháp - một học thuyết thống nhất tất cả các pháp mônThực ra mà nói, họ tranh cãi nhau rằng hầu hết thật tế nhân loạichúng ta biết chỉ là sự bóp méo, kết quả của vọng tưởng đã ô nhiễm những tâm thức cá nhân, và chúng ta đã nhận ra tâm phân biệt vốn không có tồn tại.

Đối với nhân loại, Phật tử tin rằng ban tình thương cho người khác là hiệu quả tương ứng của sự thấu hiểu lý duyên khởi và chia sẻ kinh nghiệm đau khổ do tâm tạo ra. Thông qua quán chiếu, “nhà khoa học Phật giáo” đến để thấy rõ nguổn gốc của tâm bất an, tán loạn chính mình và giác biết những điểm khác biệt bên ngoài đã chia cách chúng ta, từ đó có thể khởi lòng thương cảm những người khác hơn.

Một vị khách khác mới đây của Big Think, nhà triết học Alain de Botton, không đồng tình với siêu hình học của Phật giáo, nhưng ông chia sẻ một niềm tin chính yếu rằng tận sâu thẫm bên trong những hành vi xấu ra biểu hiện ra bên ngoài đối đãi với nhau, vẫn có tồn tại những giá trị nhân văn như là sự tử tế, tình thương yêu, và giá trị của trẻ thơ – và đó là thách thức lớn nhất của chúng ta khi muôn loài không đánh mất bản lai tốt của họ.

Tất nhiên, nếu bạn tin điều đó như là nồng cốt, mọi người thì bạo lực, tranh đấu và tàn ác, và vì thế không có sự tranh luận nào khiến bạn quan tâm. Nhưng nếu bạn đồng tình rằng lòng căm thù, lo lắng, tham lam, và ghen tuông là thứ yếu và bản chất bên trong của những tâm phá hoại sâu sắc đó – vẫn hiện hữu– tìm một vài biện pháp đáng tin cậy để điều ngự hoặc chuyển hóa chúng – và bằng cách ấy tánh bản thiện của chúng ta trở nên tốt hơn – xứng đáng để nhân loại truy tìm.

(http://bigthink.com/think-tank/buddhism-as-a-science-of-the-mind)

 

 

Buddhism as a “Science of the Mind”

 by JASON GOTS

Buddhism is not a collection of views. It is a practice to help us eliminate wrong views. 

                                                   Thich Nhat Hanh, The Heart of Buddha's Teaching. 

What’s the Big Idea? 

I can already anticipate the critiques. Science is about objective, reproducible verification. Buddhist meditation, on the other hand, is about you, alone with your own subjective experience of your own mind. All of its so-called “evidence,” of the positive effects of meditation, the limitless capacity of the human heart for joy, compassion, and peace, etc. is anecdotal. 

Putting aside for the moment the more “spiritual” aspects of Buddhist teaching, neuro and cognitive science have been paying close attention to meditation for some time now. While such studies are a source of controversy in the scientific community, there is increasing consensus that the sustained practice of meditation can permanently change the structure of the brain and improve attentional capacity. 

It’s early days still for the neuroscience of meditation, but Kadam Morten, a teacher in the New Kadampa tradition of Buddhism, argues that the Buddha (Gautama Buddha, who lived in India approximately 2500 years ago) was the creator of a “science of the mind.” The practice of Buddhist meditation, he says (echoing Geshe Kelsang, the founder of New Kadampa), enables anyone to verify through self-study that beneath the “deluded mind-states” of anger, jealousy, and attachment which dominate our waking lives there exists a universal, self-renewing wellspring of compassion, joy, and love. 

This “spiritual dimension” of our existence, which Buddhists believe is empirically verifiable through practice, is what fundamentally distinguishes Buddhism from what might be called Orthodox Atheism, which denies the existence of any such dimension.  

What’s the Significance?

Those aspects of Buddha’s teachings that have been preserved in various traditions share a belief in the interdependence and interconnectedness of all things – a kind of unified theory of everything. In effect, they argue that most of human reality as we know it is a distortion, the result of the delusions that afflict our individual minds, and that we perceive distinctions where none exist. 

For humans, Buddhists believe, compassion for others is the logical response to the understanding of interdependence and the shared experience of suffering that deluded mind-states cause. Through observation, the “Buddhist scientist” comes to understand the sources of her own confusion and psychic dissonance, and, seeing through the external differences that divide us, can better empathize with others. 

Another recent Big Think guest, philosopher Alain de Botton, might disagree with the metaphysics of Buddhism, but he shares this core belief – that beneath our often horrible outward behavior toward one another, there exists a set of shared human values such as kindness, compassion, and value of children – and that our biggest challenge as a species is not losing track of them. 

Of course if you believe that, at their core, people are violent and competitive and cruel, then neither argument is likely to interest you much. But if you agree that hatred, anxiety, greed, and jealousy are secondary and deeply destructive aspects of our nature, then – after survival – finding some reliable method to control or eradicate them – and thereby liberating our better angels –becomes pretty much the only worthwhile human pursuit.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 679)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 638)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 600)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 669)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 769)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 794)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 769)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1388)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 993)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1400)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1160)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 970)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 818)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 948)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1395)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1142)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1173)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1375)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1289)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1253)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant