Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiện Tướng Chánh Pháp

12 Tháng Giêng 201806:36(Xem: 7011)
Hiện Tướng Chánh Pháp
Hiện Tướng Chánh Pháp
                                                                      
Tưởng niệm ngày Phật Thành Đạo. PL. 2557.
 Hiện Tướng Chánh Pháp
 

Ở những ngày tháng cuối năm Quí Tỵ, trước và sau lễ Noel, không khí  Miền Nam năm nay đã khá lạnh hơn những năm trước đây, riêng  ở những vùng Cao nguyên Trung phần, nhứt là những tỉnh  miền cao, vùng tuyến đầu đất nước, thậm chí có nơi tuyết đổ  lên đến 2, 3 tấc!
 
Cùng với tiết trời lạnh lùng u uẩn ấy, theo lệ thường, khi bước sang đầu tháng Chạp (tháng 12 al), mặc dù ngày nay, thông tin toàn cầu về ngày lể Tam hợp (Vesak), trong ấy gồm Phật Đản, Phật Thành Đạo, và Phật Nhập Niết Bàn. Nhưng không ít những Đạo tràng Tự Viện, Tịnh Xá .v.v… vẫn giữ thông lệ lễ kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo (mùng 8.tháng Chạp hằng năm), ngày mà đa phần những người đệ tử Phật, hay có niềm kính tin về Đạo Phật, hoặc đi đến đạo tràng tu học nghe pháp, hoặc trì kinh, lễ bái cầu nguyện, hoặc làm những điều phước thiện, hoặc đóng góp vào những tổ chức phước thiện nào đó trong xã hội.
 
Và cũng chính trong lễ hội nầy, chúng tôi được thỉnh cầu đến chứng dự lễ kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo, mà cũng là ngày lễ “khai đục tạc tượng” Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni tại Đạo tràng TX. Ngọc Châu. Thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang do Đại Đức Minh Điền tổ chức.
 
 Nguyên là 2 khúc gỗ hương (một trong những danh mộc hiếm quí), mỗi khúc có chiều cao 1m50 và đường kính 1m05 do hai Đại Đức trụ trì Tịnh Xá Ngọc Châu và TịnhXá Ngọc Liên đã bỏ công nhiều ngày tìm kiếm, với ước nguyện tạc thành hai bảo tượng Đức Bổn Sư để được tôn trí tại 2 Đại hùng bửu điện nói trên. Đến chứng dự lễ cầu nguyện có đông đủ Chư tôn Giáo Phẫm, Tăng Ni và quí thiện hữu trí thức, Phật tử gần xa cùng góp phần và tham dự.
 
Trong khung cảnh buổi lễ trang nghiêm thanh tịnh nầy, một thoáng, chúng tôi nhớ lại bài kinh Tương Ưng 5, thiên Đại phẫm, chương 1. Ở đây, Đức Phật đã lấy ví dụ tương ưng với điềm tướng báo trước mà làm duyên cớ để hướng dẫn đại chúng tỳ kheo thực hiện sự tu tập, để đem lại lợi lạc chúng sanh, chư thiên và loài người…
 
“Nầy các tỳ kheo,  như cái đi trước và điềm tướng báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông. Cũng vậy, nầy các tỳ kheo, cái đi trước và điềm tướng báo trước Thánh Đạo tám ngành sanh khởi chính là đầy đủ như lý tác ý… chính là bạn hữu với thiện.” Tương ưng  (S.v. 31).
 
Qua đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy, lời dạy của Đức Phật thường dựa vào hiện tượng chuyển động của mọi sự vật, để từ đó nói lên phương pháp, con đường dẫn đến tịnh hóa tâm thức, vượt thoát mọi khổ đau. Không có vấn đề nào là không có nhân duyên, không nhân quả của nó, sự hiển bày hiện tượng cũng chính do sự vận hành của các pháp nhân duyên, và hiện tượng luôn cho ta thấy biết những điều sẽ đến trong ta hay trong cuộc sống quanh ta, trong mọi lảnh vực cùng có mặt như ta.
 
Nếu như mặt trời mọc là hiện tướng, điềm báo trước là bình minh hay bình minh là điềm tướng báo trước là do mặt trời mọc phương đông, cũng như tất cả mọi sự việc trong xã hội cuộc sống con người, nói chung trong hành tinh mà chúng ta đang có mặt như thế nào trong sự sanh hóa, hạnh phúc bình yên, hay tiêu tàn loạn khổ và hủy diệt.v.v… đều manh nha từ những ý niệm, việc làm thuận theo lẽ phải, thích hợp với lẽ phải, hay bởi những ý niệm ác quấy, khuynh hướng theo ác quấy. Đó là những hệ quả “của cái đi trước, là điềm tướng báo trước…”
 
Cùng cách ấy, Chánh pháp của Đức Phật hay Đạo Phật được tồn tại lâu dài, đem lại hạnh phúc an lạc cho chúng sanh, chư thiênloài người lâu dài, thì cũng dựa vào “ cái đi trước, và điềm tướng báo trước…” Ở đây, cái gì đi trước, cái gì là điềm tướng báo trước ? Chính đó là “như lý tác ý, và biết làm bạn với thiện…”.
 
Vẫn biết rằng : trong mọi hình thức tồn tại giữa tinh thầnhiện tượng vật chất, giữa cái ác và cái thiện, giữa cao thượng và thấp kém.v.v… luôn có mặt và song hành trong đời. Thế nhưng, nếu như ác tư duy mỗi ngày một tổn giảm từ bản thân, gia đìnhxã hội, thì mặc nhiên những điều thiện tư duy sẽ được sanh trưởng và tăng trưởng một thêm lớn mạnh cũng từ bản thân gia đìnhxã hội, thì sự thành tựu trong sáng lành mạnh nào, hạnh phúc an vui nào có thể cao đẹp hơn ? Những điều bất an, rối khổ cho cộng đồng sẽ phải bám víu bào đâu để mang lại bao não loạn cho nhiều người?  Phải chăng từ “như lý tác ý hay biết làm bạn với thiện” mà có được như vậy. ?
 
Đến đây, Đức Phật giúp chúng ta có được hành động cụ thểchi tiết hơn, không để rơi vào những trạng huống vô bổ bởi những ý tưởng suông suồng, lừa gạt do truyền tụng ca ngợi  những cảm giác ảo. Ngài dạy : … “Và nầy các tỳ kheo, thế nào là tỳ kheo đầy đủ như lý tác ý, tu tập Thánh đạo tám ngành, và làm cho sung mãn Thánh đạo tám ngành”.
 
Như lý tác ý là điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là hành động tu tập từng chi phần của Thánh đạo tám ngành (Bát Thánh Đạo). Bởi vì có lưu xuất thông đạt cái thấy, sự suy nghĩ đúng đắn… hợp theo lẽ phải (chánh) thuận theo đạo lộ của bậc Thánh, thì được xem đây là sự siêu hóa tâm hồn. Vì rằng : Bát  Thánh Đạo đã sẵn đầy đủ Giới Định Tuệ hay trong Giới Định Tuệ đã đầy đủ Bát Thánh Đạo, chính đây là cốt tủy của Đạo Phật, vượt thoát mọi phạm trù lý thuyết. Nhưng sự tu tập như thế nào để có được sự vượt thoát ấy, trong khi chúng ta đang có mặt trong đời, sự thấy, biết, nghe, va chạm.v.v… ít nhiều vẫn phải đến với chúng ta, hoặc tự trong mỗi chúng ta phải đối mặt, cho đến điều gì sẽ xảy ra ? Do đó, Đức Phật dạy tiếp :
 
“ Ở đây, nầy các tỳ kheo, các tỳ kheo tu tập chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ…”
                            
Lời dạy ấy không chỉ dành cho chúng đệ tử (xuất giatại gia), mà còn hướng đến toàn thể loài người chưa có lòng kính tin về giáo lý của Ngài. Ở một góc nhìn nào đó, ta có thể thấy và biết rằng : nếu hành động nào phát xuất từ cái nhìn và suy nghĩ đúng đắn, thì điều ấy, trước hết cũng chính là hệ quả tốt đẹp đối với tự thân và sau đó đến cho mọi người. Do có tu tập chánh quán mà thấy ra rằng : “Khổ, Vô thường, Vô Ngã”, do có tu tập chánh quán mà thấy ra rằng “viễn ly tham ác” sẽ đem lại an lạc thường tại, do có tu tập chánh quán mà thấy ra rằng : “hướng đến từ bỏ” mọi chấp trước tham, sầu ưu não ở đời. Và cũng không phải vì một hình thức nào đó mà chúng ta phải ruỗi dong tìm kiếm một vài tia ấm lạc thú thường tình, để rồi thời gian là câu trả lời, là sự mục rữa như bao câu chuyện giữa dòng đời chung đỉnh.!
 
Phải đâu chúng ta cố làm điều gì đó để thể hiện sự hoành tráng, đồ sộ, lộng lẫy của mớ vật chất thế đời, rồi coi đó như là “cái đi trước và điềm tướng báo trước...” điều ấy không hẵn phù hợp với giáo lý vô ngã của Đạo Phật. Ta có thể thổi vào, tạc vào cuộc đời bằng một Phật chất, tự mình không vì lợi dưỡng tham cầu, và giúp người nhận biết không vì lợi dưỡng tham cầu, biết tu tập, thực hành hạnh viễn ly, hướng đến từ bỏchuyển hóa những phàm chất để được trở thành một Phật chất, thì đây chính là hiện tướng của chánh pháp, điềm báo trước của chánh pháp, vì chánh pháptồn tại là do “như lý tác ýtu tập đầy đủ, biết làm bạn với thiện”. Bậc đạo sư Shantideva (Tịch Thiên) đã giúp cho chúng ta từng bước hiện hóa vào đời bằng một khái nhiệm : “Tất cả những việc làm vô hạilợi ích cho hữu tình, con đều sai khiến thân nầy làm hết. Nguyện cho ai trông thấy con đều được nhiều lợi lạc”.
                                                             ( Nhập Bồ Tát  Hạnh, chương 3).
 
Trở lại vấn đề trên, nếu như bình minh (rạng đông) là hiện tướng của mặt trời mọc, đem lại ánh sáng cho ngày, điềm báo bóng tối không còn, thì điềm tướng báo trước, chờ đợi được tu tập Thánh đạo tám ngành,  chính là “như lý tác ý”. Đồng thời,  như những lời cầu nguyện  an lành thổi vào, tạc vào khúc gỗ để trở thành một đức Phật với thân tướng trang nghiêm, có vô lượng hào quang, có vô lượng công đức, và có vô lượng an lạc cho khắp chúng loài hữu tình, thì đây nếu không phải là “cái đi trước và điềm tướng báo trước” là hiện tướng của chánh pháp ?
 
Hôm nay, để đánh dấu ngày tưởng niệm Phật Thành Đạo bên dòng Ni Liên huyền sử xưa, mà trước đây đã trên 2500 năm TTL, bấy giờ và hơn bao giờ hết,  Đức Phật đã thật sự có mặt giữa thế đời bằng sự tịnh hóa thuần khiết tâm tư, Ngài thật sự vượt thoát ngoài vòng hệ lụy, danh lợi tước quyền, thân thuộc… Sự có mặt đích thực của Ngài chính là sự diệt tận mọi lậu hoặc, đạt vào quả vị Chánh Đẳng Chánh giác, tịch tịnh Niết bàn. Mặc dù Đức Phật đã vào Niết bàn, nhưng dòng sông huyền sử xưa vẫn triền miên xuôi ngọn chảy vào hằng triệu triệu trái tim còn cưu mang sức sống từ nơi đạo giải thoát của Đức Phật.
 
Với buổi lễ “khai đục tạc tượng” được xem như là một nghĩa cử phát tâm thực hành chánh lý, tu tậphiện thực chánh pháp trên con đường Thánh đạo tám ngành, để thổi vào đời, tạc vào đời một Phật chất, và cũng chính cái nhân ấy là “cái đi trước và điềm tướng báo trước…” cho chúng ta biết rằng : vẫn còn chánh pháp ở đời, mà cũng là sự phát tâm bồ đề  nơi chốn ba cõi vô an của người đệ tử Phật.
 
                                  Long Xuyên, ngày tưởng niệm Phật Thành Đao,                    
                                              Tháng Chạp, năm Quí Tỵ, 2013.
 
                                                       MẶC PHƯƠNG TỬ.
                                                      
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 138)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 193)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 216)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 282)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 193)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 243)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 293)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 263)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 296)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 372)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 604)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 462)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 480)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 573)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 752)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 832)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 854)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 840)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 731)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 709)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 713)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 812)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 938)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 715)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 612)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 707)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 823)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 708)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 707)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 822)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 850)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 825)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 863)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 893)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 885)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1077)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 952)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1658)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1210)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 955)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1211)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1115)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1277)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1553)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2031)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1095)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1352)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1063)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1095)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1532)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1286)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1288)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1022)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1181)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant