Đạo Phật đang phát triển rộng rãi đến nhiều tầng lớp. Rất nhiều các bậc tri thức, các nhà khoa học chân chính, đến cả những người vốn bảo thủ đã sớm hướng vào nội giới tìm con đường giải thoát theo như lời dạy của đức bổn sư. Gặp được Phật pháp chính là cơ hội lớn, may mắn nhất trong mỗi đời người. Một câu “A Di Đà Phật” lọt vào tai rồi sẽ thành chủng tử Bồ đề, người ấy có cơ hội thoát khổ vĩnh viễn trong những kiếp vị lai một khi được sanh về Cực Lạc.
1. PHÁ GIỚI
Hoan hỷ niệm, quên thời gian không gian, một lòng hướng về cõi Tịnh trên nền tảng trì giới là những bước chân vững chắc trên đường Đạo. Người niệm Phật ba ngày thành tựu, đã có. Người niệm ba tháng, ba năm gặp Phật ấn chứng ngày vãng sanh,trường hợp này cũng nhiều; sự thật được ghi hình thâu âm rõ ràng. Người niệm Phật biết trước ngày giờ, lúc thiêu hiện xá lợi,gần đây có vị còn lưu toàn thân xá lợi vàng ròng như hổ pháchbất hoại, khắp thế giới chứng nghiệm bằng kỹ thuật hiện đại và trở thành báu vật trong nhà Phật, đó cũng là sự hiển nhiên không gì lạ.
Tu đúng, hoàn cảnh gia đình cũng sẽ chuyển theo hướng tốt đẹp, càng ngày người tu càng tinh tấn, thêm thời khóa và thời gian trong từng khóa cũng tăng theo, cho đến tương tục ngày qua đêm kể cả trong giấc ngủ. Năm ngoái sân giận đố kỵ, còn ngủ nhiều ăn nhiều, còn tham công tiếc việc nhân gian, năm sau và sau nữa nhẹ bớt, tâm từ nới rộng, là biểu hiện của sự tu đúng. Niệm Phật nhiều năm thói hư tật xấu không giảm, tiếng là đệ tử Phật cũng nên nhìn lại. Sai đường bắt đầu từ phá giới, rồi phá kiến trong lúc chưa phá được vọng tưởng chấp trước về sự “ăn may” cứu độ.
Mãi mãi về sau, tiêu chuẩn để làm một Phật tử vẫn phải dựa vào giới luật. Một đệ tử tại gia dẫu chưa trònThập thiện song cần luôn gắng khép mình vào khuôn khổ này. Khuôn khổ nghe ra chật hẹp, song đó đích thực là hành giả đang tập đi vào thế giới vô biên của lượng tâm. Người tu thường nghĩ đơn giản, rằng cứtham thiền niệm Phật là đủ. Rồi khi gặp hoạn nạn lại trách Phật không gia hộ. Chẳng như sau thời khóacông phu, trên đường từ chùa về hành giả ghé vào quán nhậu làm một chầu, tuôn trào tạp thoại đủ chuyệntrên trời dưới đất, nhất là những hạn chế của bậc “đầu tròn áo vuông” theo kiểu không phải gió động phướn động mà tâm động; thần nào sẽ hộ pháp? Hộ pháp nghĩa rốt ráo vẫn là sự tương ưng, tức khi tâm thuần thiện; còn lúc ta rong ruỗi ta bà, mê say dục lạc, sự gia hộ đó lập tức biến mất một cách tự nhiên. Có người thậm chí mặc cả áo tràng ngồi nhậu; người dân ngang qua thấy vậy lên tiếng chê bai luôn Phật pháp, tội này có nặng? Khoác trên mình chiếc áo cà sa, áo tràng chính là hình ảnh chân nhân; lại với hành vi xấu ácdĩ nhiên Phật pháp liên lụy, bị rớt điểm trước mắt đại chúng, trước tầm nhìn của những tôn giáo khác.
Giữ giới tưởng chỉ dăm điều ít ỏi song, đại giới Thập thiện có biên độ rộng lớn, khó niệm nào ra khỏi. Giữ giới thuần thục, họ không bị bó buộc mà luôn tự tại. Tự biết. Tự ngộ ra những gì không nên làm. Với ý nghĩchưa kịp thành hình đã được lọc qua câu hồng danh để soát xem nếu xuất ra miệng sẽ có tác dụng tốt không. Một ly nước sôi họ không thể tự tiện hắt đi bởi biết bao chúng sanh nhỏ bé sẽ bị luộc chín. Không ít người có tật chiều nào cũng gom rác và đốt, vô vàn sinh linh bị thiêu. Ở thế giới của chúng lúc đó khác gì muông thú trong một khu rừng cháy, khác gì nhiều quả bom nguyên tử ném xuống một thành phố. Mà chưa nói chuyện “nhỏ nhặt” ấy, ngay đến đại sự công đức như xây chùa dựng tượng Phật, ấn tống Kinh cũng chẳng dễ. Chùa xuống cấp đương nhiên cần được trùng tu, xây mới, còn không chưa đạt công phu cao, chưa có đạo quả đã hăng hái xây chùa không khéo phạm vào xem thường mạng chúng sanh (trong quãngthời gian thi công); điều này vốn các đại đức xưa căn dặn. Có cư sĩ lúc ấn tống sách Pháp, đạo hữu hỏi sao bìa 4 trắng trơn không đưa thêm ảnh Phật vào cho đẹp, họ trả lời: Phước mỏng, nhiều lúc người ta lỡ đặt cuốn sách giữa chiếu cũng đỡ lãnh nghiệp. Thật là một ý nghĩ xuất phát từ tâm thành kính.
Những người thợ làm hàng chưa nói; người Phật tử thêu tranh Phật, mỗi lúc giở ra thêu liền rửa tay, thanh sạch thân tâm. Từng nghe một nữ tu bảo, "thêu đến khuôn mặt Phật, toát mồ hôi hột". Trong câu nói này hàm rõ ý cung kính hết mực với Phật. Việc không có tâm cung kính, tỉ lệ thuận sẽ là tự cao ngã mạn. Có người được ngõ ý mời đến đạo tràng dự khóa, liền nói: Ở đây công khóa mấy chục phút quá ít, tui ở nhà niệm hơn tiếng đồng hồ. Người khác: tui dạo này mỗi ngày niệm ba bốn thời... Điều này quá tốt, nhưng ẩn sau đó, kiêu mạn đã tăng trưởng, như lúa càng mọc cỏ cũng xanh tốt theo. Càng tu ngã càng lớn, càng muốn được người đời cung phụng, là hiện tượng chẳng hiếm. Nó không những làm mờ nhòa công phuthăng tiến về cõi Phật của riêng ta lại còn ảnh hưởng đến đại chúng, khiến bộ mặt của Đạo thiếu hòa ái từ bi, đôi khi nó trở thành bức tường vô hình ngăn cách giữa chúng sanh và Phật.
Sơ tu, lòng thành kính chư Phật và Bồ tát trọng yếu nhất. Cái gọi phá chấp đã ảnh hưởng sâu ở nhiều Phật tử một cách tự nhiên đến khó hiểu. Không ít người đưa cả Kinh vào phòng ngủ, treo ảnh Phật khắp tường.Giả như cá nhân chỉ có một căn phòng, thì sự này tạm chấp nhận với phương cách có màn che lúc cần, còn với gia đình có hai phòng thì dứt khoát không nên đưa Kinh, ảnh Phật vào. Đặc biệt với phòng the vợ chồng càng tuyệt đối. Chẳng lẽ những người ấy thay quần áo trước mặt Phật, trước Kinh luận? Rồi liệu chuyện gì xảy ra nữa, thật không dám nghĩ thêm. Đây là nhân cực xấu cần tránh gieo. Tôi ngày xưa cũng từng phạm tội đọc Kinh rồi để luôn trong phòng ngủ uế trược, sau nghe được lời khai thị của thượng nhânTuyên Hóa mới giật mình choàng tỉnh, vội sám hối. Tổ sư đại đức xưa mỗi lúc xem Kinh xong thì trân trọngđể trở lại kệ sách ở phòng thanh sạch. Có vị mặc cà sa xem Kinh, lúc vệ sinh thì cởi, sạch sẽ tay chân thân thể rồi vào mặc lại trang nghiêm mới tiếp tục học. Không hành nếp sống này, hành giả vô tình tự xem mình hơn cả cao tăng!
Trong Niệm Phật tông yếu của Pháp Nhiên đại sư và Thán dị sao của ngài Thân Loan, đọc qua thấy “đơn giản”, nhưng chưa dễ tiếp nhận, dẫu lợi ích tăng trưởng niềm tin về nguyện lực cứu độ vô biên của Phật A Di Đà. Người chưa hề biết Phật pháp, nghĩ tu khó, khi đọc sách này dễ mang lại nhân duyên thù thắng. Nhưng qua đây cũng khiến nhiều người quá xem trọng tha lực, niệm Phật là đủ, niệm ít niệm nhiều cũng giống nhau, người giữ giới niệm Phật cũng không khác người không giữ giới niệm Phật, người có chồng vợ (quá mặn nồng tà dâm) với người không chồng vợ niệm Phật đều như nhau v.v; chẳng cần biết đến sát trộm dâm vọng, phá rào lâm vòng tục lụy, dấn thêm vào vũng lầy. Đây là lý rất thâm sâu, mang tầm vóc tư tưởng phá chấp nhằm “trực chỉ nhân tâm”. Nhưng chỗ “vô ngã” này không dễ nhảy vào; giao phó toàn mạng cho Bổn Nguyện thực tế hành giả chỉ thấy núi, còn chạm tới núi và đều phải hành từ những bướcchập chững đầu tiên của giới định. Nói vậy không phải chẳng ai vào được, song khi mà tâm chúng ta chứa cả núi vọng tưởng và luôn bị tham sân si mạn ngầm sai sử thì việc giao mình cho Phật đôi khi không tưởng. Taitetsu Unno luận về Tịnh độ Chân tông trong Sông lửa sông nước: “Tự lực không phủ định nỗ lựccần thiết để tiến bộ trên con đường thức tỉnh. Tiềm ẩn trong cái gọi là con đường dễ dàng của Phật giáoTịnh Độ là truyền thống lớn “tu thân” trong truyền thống Á châu. Tu thân điều phục thân và tâm, xây dựngtính cách và sức mạnh bên trong, kiềm chế dục vọng, và làm hiển lộ tiềm năng trọn vẹn nhất của một con người”. Tác giả của cuốn sách thuộc hàng kinh điển về văn học Phật giáo này cũng cho biết ngài Pháp Nhiên luôn khuyến khích hành giả “thường hằng niệm Danh Hiệu; và ngài cũng đã niệm sáu mươi hoặc bảy mươi ngàn lần mỗi ngày”. Với con số niệm này nếu tính ra sẽ thấy người niệm Phật sẽ chẳng còn thời gian để mà vọng tưởng, cũng chẳng còn thời gian nghĩ về giới luật bởi đã hòa trong giới luật, câu hồng danh đã nhuốm lên hết thảy. Song với sự hình thành của Chân tông đã khiến pháp Niệm Phật trở nên vi diệu, sống động, và Danh Hiệu trở thành ngọn đuốc soi đường trong sự khát ngưỡng tâm linh cùng tận đối với bất cứ chúng sanh nào còn hồ nghi và tự ti về sự giải thoát khỏi bể trầm luân.
Kinh A Di Đà, Phật thuyết khi thiện nam tử thiện nữ nhân niệm Phật từ một đến bảy ngày (là con số ước lệ), niệm đến “nhất tâm bất loạn”, (tức chí ít cũng niệm câu Phật hiệu thành phiến thành khối, ban đầu thì tập trì từng chuỗi mười câu, rồi lại mười câu quay vòng tai nghe rõ ràng ít lẫn tạp niệm), lúc lâm chung Phật và chư Thánh sẽ hiện tiền gia hộ... khiến tâm bất điên đảo. Đoạn kinh có hai ý tối quan trọng. Thứ nhất là chữ thiện (trong thiện nam tử, thiện nữ nhân). Bậc đại sư lúc chú giải Kinh đã nêu rõ chữ thiện này chính làThập thiện, tức người nữ người nam nằm trong khuôn Thập thiện. Rất nhiều người niệm Phật vạn câu,niệm Phật hàng chục năm vẫn không thăng tiến công phu, bởi từ chối đặt mình vào Thập thiện. Điểm thứ hai cần lưu ý, đoạn Kinh cho biết thiện nam tử thiện nữ nhân niệm Phật chí ít đạt thành phiến, thành khối (nhất lâm bất loạn), sau đó “A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền”. Chứng tỏ phải có tự lựctrước, Phật mới cảm ứng, nghĩa là hành giả trước hết đủ niệm lực chống với khoảng 50% nghiệp tham sân si mạn. Ngài Pháp Nhiên trước lúc biết đến pháp Niệm Phật đã tu các pháp môn khác, đạt ngưỡng trong đêm tối đọc kinh hào quang chiếu ra không cần đèn, tức tâm rất định; công phu đó tiếp xúc với Niệm Phậtliền tiếp nhập cảnh giới vi diệu. Hơn thế, đại sư cách nay hơn 7 trăm năm, thời điểm nhân tâm con người ít vọng động hơn bây giờ rất nhiều, nhất là đối với người Nhật thấm sâu phong vị thiền.
Tịnh độ Chân tông phá chấp, trước hết là phá cái Ngã. Người niệm Phật thường chấp vào số lượng câuPhật hiệu và thời khóa công phu, chẳng hạn ta niệm mỗi ngày nhiều hơn ông nọ bà kia, dĩ nhiên sẽ đượcvãng sanh còn họ thì không; mỗi ngày ta chuyên trì ba bốn thời, họ chỉ một hai thời, thời công phu lại ngắn sao có thể bì với sự vãng sanh của ta. Đó dẫu sao vẫn là cái chấp dễ nhìn thấy. Hễ đã trì niệm, dẫu đạt đến vô niệm tự niệm thì vẫn còn đó cái Ngã đang niệm Phật. Tịnh độ Chân tông, biểu hiện rõ nhất trongNiệm Phật tông yếu hướng vào tha lực là ý muốn hành giả chỉ biết tinh tấn niệm Phật, còn vãng sanh là việc của Phật A Di Đà; cái Ngã vô tình sẽ bị phá mà hành giả không hay. Để thấy điều thâm sâu lại ẩn sau cái tưởng bình thường.
2. PHÁ CHẤP
Giữa phá giới và phá chấp luôn có mối liên hệ mật thiết. Phá chấp lúc công phu hành trì chưa nhuần nhuyễn sẽ khiến người tu phá giới; từ đó dễ chừng phá kiến, lạc đường tà. Phá chấp là một bể học và hành xuyên suốt cuộc tu. Phá chấp cao nhất ở lý Kim cang bát nhã, từng bước phá phân biệt và chấp trước với vạn pháp bởi mỗi pháp đều bình đẳng với chính nó và với vũ trụ nhân quả. Phá chấp là thuần lợi người và vạn vật, phá đi mọi ô ngăn nghiệp thức để có cơ hội hòa vào chân tâm vốn thấy vạn pháp đềunhư. Song ở đây không dám bàn đến lý mầu diệu này bởi sự tu của bản thân còn non kém.
Người Việt Nam tu theo Pháp môn Tịnh độ khá nhiều, đây là điều đáng mừng, đúng như lời khuyên của Phật Thích Ca và chư Tổ. Tịnh độ Chân tông Nhật Bản và Tịnh độ ở Trung Quốc ít nhiều ảnh hưởng sâu rộng trong giới tu Tịnh độ nước ta. Đã chánh pháp, cao nhất đều là một. Ngài Pháp Nhiên vốn nhận được khai thị về thế giới Cực Lạc từ Thiện Đạo đại sư (Tổ thứ hai của Liên Tông chư Tổ) qua Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, trên cốt tủy này lập nên Tịnh độ ở Nhật Bản; vậy có gì khác nhau. Hễ bất cứ ai ở bất cứquốc gia nào, nếu họ là cao tăng đại đức, là thượng nhân, là chư tổ, là người chứng quả, là người đượcPhật ấn chứng vãng sanh rõ ràng, chính là “sứ giả” của Phật, là thiện tri thức của giới Phật tử. Pháp ở họ có khác chăng là do không gian, tính cách con người và hoàn cảnh mỗi quốc gia có chút sai biệt, (nên pháp đó cũng như bốc thuốc Bắc, cần tăng thêm chút này giảm chút kia). Một trong những cuốn pháp tiêu biểu hợp với người Việt có lẽ là Tuyển Tập Pháp Niệm Phật của Thượng Nhân Pháp Nhiên, hay Sông lửa sông nước của Taitetsu Unno. Còn với người Việt, thiết nghĩ tinh thần Tịnh độ Chân tông như Niệm Phật tông yếu hay Thán dị sao khó thể áp dụng đại trà. Có vị sư còn so sánh Thán dị sao với Công án Thiền.
Mà công án phải dùng công phu để hiểu, không thể dùng trí suy lường; bởi bản chất công án là bất khả tư nghì! Những công án là phương tiện thiện xảo của các Tổ dành cho kẻ đương cơ; Tổ biết trò đến mức đó rồi, liền tung ra cú đòn đích đáng, kiểu như chặt đứt ngón tay, đánh bằng tích trượng để trò hoát ngộ. Đây là độc chiêu, Tổ chỉ dùng với mức trò đã ở mức có thể so sánh như Huệ Năng trở lên và chỉ dành riêng với 1 trò duy nhất, khó thể dùng chiêu đó với trò khác.
Trong nhà Thiền các Tổ rất sợ trò rơi vào ấm ma. Diễn theo kinh điển, nhất là tinh thần kinh Thủ Lăng Nghiêm, thường lúc đạt được chút xíu định, thiền sinh sẽ sanh tâm hoan hỷ, ấy là lúc ma lợi dụng mở ra tòa lâu đài khiến kẻ sơ cơ tha hồ vùng vẫy (trong hố thẳm). Thậm chí chúng hiện ra hình Phật xoa đầu tán thán... Kinh Địa Tạng cũng đề cập việc oan gia trái chủ hiện thân quyến thuộc của kẻ lâm chung để dẫn họ vào cảnh giới xấu báo oán. Việc của hành giả là mau quay lại chánh niệm; trong Tịnh tông liền chú tâmngay vào từng chữ “Nam mô A Đi Đà Phật” (niệm câu nào nghe rõ câu đó). Ở thế gian nghĩ thiện sẽ hơn nghĩ ác; nhưng muốn xuất thế gian đương nhiên đến nghĩ thiện cũng dần dà dứt luôn, bởi nghĩ gì cũng là vọng, cũng không bằng niệm hồng danh. Có vọng sẽ mở lối cho luân hồi lục đạo. Câu hồng danh sẽ phải bén như lưỡi gươm trước tất thảy niệm ác lẫn thiện, dần dà quyện lại khiến vọng tưởng mất dần năng lượng; còn thù thắng hơn ở những người tập sống với tánh giác, khiến vọng tưởng như soi mình trong chiếc gương tánh giác.
Nhiều người dẫn câu: "Phật là que cứt khô", là sai hoàn toàn ý Tổ. Công án như sau: Trò hỏi: Phật là gì? - đáp: Que cứt khô (thiển nghĩ không có 2 chữ Phật là). Đây không hề là lời đáp cho câu hỏi, mà cốt hướng tâm của hành giả ra khỏi "mạng lưới tư tưởng" lúc ấy; dù "tư tưởng" ấy là Phật thì cũng chẳng phải Phật thật, tức nếu đáp Phật là gì gì đó đều không thật nghĩa. Là câu Tổ như buột miệng nói ra, có thể lúc Tổ nhìn xuống đất và thấy que cứt khô, liền khai thị cho hành giả trực nhận sát na hiện tiền - là Phật; không phải lời nói - tư tưởng.
Một trường hợp: Phạm Công Thiện (PCT), người hẳn đã có cảnh giới thuần tịnh của riêng mình. Có lẽ quá hiếm những thiên tài như PCT, “lâm vào” công án lại thoát khỏi. Nhưng. Ai say mê đọc tác phẩm của PCT thời ông chủ yếu dụng Trí mà không đọc PCT dụng Tâm giảng giải kinh A Di Đà và nguyên lý Phật học Đại thừa giai đoạn sau này, khác gì bất chấp hố thẳm cắm đầu mà đi. PCT từng miêu tả: “Đối với tuổi trẻ, đối với sự khủng hoảng hiện nay (thời điểm PCT viết tác phẩm xuất bản năm 1970), chỉ có những lối thoát sau đây: 1. lao vào đời sống và tự tạo trách nhiệm; 2. tự tử; 3. lao vào trụy lạc trác táng; 4. điên; 5. đi tu”. Những đoạn văn của PCT như trên sẽ ít nhiều khiến độc giả hiểu chưa đúng về ông. Nhất là với một PCT đã sống trọn trong Pháp quãng về già, cuối đời, ở đấy quá khứ gần như bị phủ nhận và chết hẳn. 4 tiêu chítrên, PCT không có ý xếp thứ tự điều nào đầu (trọng nhất), điều nào cuối (nhẹ nhất). Nhưng nó tác độngmạnh về mặt xã hội. Thử làm phép loại trừ để định hướng giới trẻ bây giờ (ở khía cạnh nếu ảnh hưởngnặng PCT, họ sẽ chọn lựa gì? Đi tu? - chắc chưa đủ duyên. Điên? - Bùi Giáng ư, sao đủ nội lực theo? Tự tử - thật khùng nếu chưa thực sự là “thiên tài” nhiễm chủ nghĩa hiện sinh, hư vô. Chỉnh chu hơn chút, thử “lao vào đời sống và tự tạo trách nhiệm” (chữ trách nhiệm tức có ích với xã hội, cũng hiếm). Điều còn lại (lao vào trụy lạc trác táng) sẽ dễ được lựa chọn. Hoặc cũng có người chọn cùng lúc vài ba điều hoặc hết thảy).
PCT còn viết: “Đối với tôi danh từ quê hương chẳng có ý nghĩa gì cả”; thấy rõ PCT ảnh hưởng đậm nét nhà văn Henry Miller và hơn nữa là Thiền sư Krishnamurti - đó là sự phá bỏ chủ nghĩa quốc gia. Tuy nhiênsự phá bỏ của Krishnamurti là xuất thế gian pháp; còn ở trong thế pháp lại đòi phá bỏ là ngược với tinh thần Đạo Phật. H. Miller về sau cũng như PCT, đều trên Chánh đạo, và càng tiệm cận với con đường củaĐức Phật họ càng nhận ra nhiều lầm lẫn trong quá khứ. Thế nên có lần H. Miller nói đại ý, tôi bây giờ không phải tác giả của những cuốn sách đang được tôn vinh trước đây. Còn PCT giai đoạn về sau sống với pháp môn Tịnh độ, “trở về sự im lặng”; trở về “chuyển động toàn diện của tâm thức trong ánh sáng bất tận của Phật A Di Đà”. PCT lúc này, “đọc bao nhiêu kinh điển Phật giáo trong mấy chục năm trời liên tục thì cũng không bằng chỉ mỗi sớm mỗi chiều niệm Phật xưng danh: Nam Mô A Di Đà Phật”. Thấu chân lý, PCT học Phật chứ không Phật học nữa. Là bước chuyển mình vĩ đại từ Phật học (sở tri) qua học Phật (hành trì). “Nam Mô A Di Đà Phật” (Namo Amitàbhàya Buddhàya) trở thành tiếng kêu của kẻ Giác Ngộ, một kẻ buông thả tất cả mọi sự, buông bỏ thiện và ác, buông thả sự giác ngộ và vô minh, buông thả thiên đường và địa ngục. Niệm Phật xưng danh Phật cho đến chỗ Nhất Tâm Bất Loạn là pháp môn huyền diệu nhất để phá tan tất cả nghiệp lực, để được Vãng sinh Tây phương Cực Lạc”.
Trong giới tu hành tinh thần phá chấp là một vấn đề then cốt, nên thận trọng vẫn hơn. Chớ “cầm nhầm” chuyện các Tổ đại đức nhổ nước bọt vào tượng Phật; giết mèo; chẻ tượng Phật v.v, đều là những món không dành cho bất cứ ai ngoại trừ kẻ được Tổ chọn dùng để khai ngộ). Nhắc lại sự phá chấp trong Chân tông Nhật Bản; có Thầy bảo trò, nếu con không ăn chay được thì ăn mặn mà niệm Phật; nếu con ở chùa không niệm Phật được thì về nhà lấy vợ mà niệm Phật, v.v. Lời khai thị mang tinh thần phá chấp ấy chỉ dành cho trò ấy, ở căn cơ ấy và tại thời điểm ấy mà thôi. Tiếp xúc với những công án Thiền quá sớm sẽ mang hậu quả khó lường. Tinh thần phá chấp thấm vào tâm không được công phu hỗ trợ dễ khiến người tu hiểu lệch. A Di Đà Phật là Vô Lượng Quang, dĩ nhiên không nơi nào không soi thấu. Nhưng hiểu theo kiểu đâu cũng có Phật, không cần kiêng dè cung kính, nghiễm nhiên đưa cả hình ảnh Phật, kinh kệ vào phòng ngủ vốn nhơ nhớp, sẽ trực tiếp gieo chủng tử thảm khốc. Phật từ bi nào có giận, nói chi đến lôi ai vào ác đạo. Nghiệp lực tự gieo sẽ tự chiêu cảm lấy, nhất là nghiệp có tính làm hoen ố Phật pháp trước đại chúng. Từ đây chỉ phác lộ ra hai con đường: một là lên Cực Lạc, hai là xuống Địa Ngục. Tịnh độ là pháp môn đặc thù, vô cùng thiện xảo, có đới nghiệp. Mang nghiệp quá nặng liệu có nhẹ nhàng thăng tiến? Trên tinh thầnđó các hiện tượng như bày tiệc rượu thịt, bài bạc ngay trong gian thờ Phật trở nên “không can gì”, lây lanphổ biến. Lại có những vị Phật được vẽ, khắc chạm chỉ có cái đầu không; đó là chuyện của nhà chế tác,xem như hình tượng nghệ thuật, ở đời khó thể trách, miễn sao gieo được thiện căn với người xem. Còn với người tu không nên thờ Phật với chỉ cái đầu. Nếu ai cho điều này bình thường, hãy thử in mỗi cái đầu của ông bà cha mẹ đặt lên bàn thờ xem có ổn không? Phá chấp kiểu trên nếu lan rộng sẽ là rào cản vững hơn núi lửa ngáng trở hành giả trở về chân tâm rỗng lặng trong kiếp này.
Niệm Phật để tâm trở về nguyên bản rỗng rang, luôn phải thực hành lúc giới luật đã được người tu một lòng hòa nhập, nó như thành trì cuối cùng mở ra cảnh giới lộng lẫy tuyệt cùng.
3. PHÁ KIẾN
Những gì Đức Phật thuyết trong suốt cuộc đời là chân tướng vũ trụ; với cõi Ta bà trước hết là chân lý vềkiếp người, ai nương vào tu hành sẽ thoát khổ đau. Phật giảng với rất nhiều căn cơ, nhiều cảnh giới, thậm chí có cảnh giới trong định cho hàng Bồ tát và chư thiên, nên số kinh vô lượng, nghĩa cũng vô lượng. Ngay cả với một bộ kinh, lúc này giảng cho căn cơ thấp sẽ khác với hàng căn cơ cao hơn. Đơn cử đều khuyến tu lên Cực Lạc, pháp hội này Phật nói ngoại trừ ngũ nghịch thập ác, ở thời khác Ngài bảo hạng người này cũng được độ sanh. (Thực tế đã có minh chứng cụ thể; càng chứng tỏ túc nghiệp vô cùng quan trọng, càng củng cố thuyết tái sanh trong sáu nẻo). Không hiểu sẽ cho Phật nói thế nào cũng được. Là do người ta dùng trí phàm soi Tâm Phật, lấy ngao lường biển. Giáo sư triết học Tây phương Phạm Công Thiện giai đoạn sau này lúc giảng kinh Đại Thừa đã đề cập chuyện nhiều học giả rất thích tranh luận chữ nghĩa; cãi lộn chữ nghĩa; biết chữ nghĩa để rồi bôi mất chữ nghĩa, chẻ chữ làm năm làm ba làm cho đại chúng rối bù. Rất nguy hiểm. Còn ông sống trong kinh điển, chìm trong kinh điển rồi rút ra mật ngôn: Tất cả bí ẩn, diệu thường nằm trong sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật. Không tin pháp môn mà bao người đã hiện tướng thành tựu viên mãn, là một kiểu phá kiến đầy tai hại.
Một khi không dụng công nhìn Pháp, lại dụng trí soi xét rốt cùng dùi tới kéo lui trong vòng luẩn quẩn. Rồi còn cho kinh này cao, kinh kia thấp. Thiển nghĩ, Phật giảng, kinh nào cũng cao nhất. Tịnh độ tông vi diệu, Thiền và các pháp môn khác cũng vậy. Bách pháp, hạ thủ dụng ở bất cứ một pháp nào, thì 99 pháp còn lại đều có công năng trợ tu vi diệu. Pháp là chân lý vũ trụ sao có hơn thua. Pháp bất biến, nhưng nhân tâmluôn biến đổi, ngày càng loạn, thế nên mỗi thời có những phương tiện thiện xảo; (như thời Chánh pháp Giới luật thành tựu, thời Tượng pháp Thiền thành tựu, thời Mạt pháp Tịnh độ thành tựu). Bởi tâm quá nhiều vọng niệm ứng với xã hội nhiễu nhương, nói thời nay hành thiền khó thành tựu hơn niệm Phật không có nghĩa tu thiền không chứng. Người thiện căn sâu dày, từ nhỏ được gia huấn bởi Đệ tử quy, lớn lên đã nằm trongThập thiện, Sa di, Cụ túc giới nghiêm minh giữa môi trường thuần tịnh, dĩ nhiên hành thiền hay nhập khôngtông tánh tông vẫn là cứu cánh.
Ngàn vạn pháp môn suy cho cùng cũng là phương tiện. Chân lý nếu không có phương tiện sẽ không hoàn mãn cứu độ. Chân lý là con đường nhưng đến đích lại cần phương tiện. Căn tánh mỗi người mỗi khác, ngay cả với những người tu cùng một pháp môn. Tịnh độ tông đích của hành trì là tâm thanh tịnh. Niệm Phật kết thành phiến, vọng niệm khó sinh khởi, sẽ sinh định phát huệ. Một người bắt chân kiết già tĩnh tọa,tuyệt đối bất động, chỉ có tâm là “động” với A - Di - Đà - Phật, từng chữ một rõ ràng, theo chuỗi nối nhau. Thì đấy chính là Thiền. Giữa Phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo Phát triển có gì khác nhau? Có Hòa thượng chuyên hoằng dương Tịnh độ vẫn khuyên người tu nếu không học Tiểu thừa nhất thiết phải lấy đạo Nho và đạo Giáo làm nền tảng cho Thập thiện nghiệp đạo, Sa Di luật nghi. Nhiều vị cao tăng khác thuộcĐại thừa lại khuyên quán Tứ niệm xứ chế ngự lậu hoặc, không chấp thân này (vốn như bình quý đựng phân, là túi da hôi thối).
Một khi tâm khá nhuần nhuyễn câu Phật hiệu, tức không khởi tâm mà hồng danh cứ vang lên từng chuỗi nối nhau bất tận bất kể ngày đêm, thậm chí trong mơ; người tu không nhất thiết phải nghĩ đến thế giới Cực Lạc, không nhất thiết phải nghĩ đến Phật A Di Đà. Về đâu, nhập vào cõi nào trong mười phương là tùy duyên, chưa phải chuyện của hành giả đang niệm Phật. Đó là nhạt cái ta đang niệm Phật, phá cái ngã, là bước chân đầu tiên trong hành trình tiến đến tánh chân như. Tu tịnh hiểu thiền, cội gốc ở đây. Người khôngniệm Phật đến mất mình miên man an lạc, nên tu thiền chưa hiểu tịnh, cội gốc cũng là đây. Những thiền sưlỗi lạc như HT Tuyên Hóa hay HT Quảng Khâm, những bậc đạt đến công phu Thiền cao thâm khó thể luận bàn cảnh giới đã một lòng khuyên người niệm Phật; sao quá nhiều người tu thiền chưa đạt đến ngưỡng của các HT này không nhìn lại mình? Vạn Phật Thánh Thành ở Mỹ quốc (một đạo tràng thuần khiết nghiêm tịnh bậc nhất dựa trên tiêu chuẩn của Phật thời tại thế như tăng sĩ ăn ngày một bữa, hành trì từ 4 giờ sáng đến khuya…), trong công khóa của một người tu vẫn có trì chú, thiền và niệm Phật. Sự kết hợp này thật vi diệu. Ai đó đời này thuộc hàng thiểu trí chăng nữa song đời trước căn duyên sâu dày, tin Phật niệm Phật,tụng kinh bái sám, nên hiển nhiên thành đạo. Còn dẫu là đạo sư (tu các pháp môn khác) không tin “niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng” làm nhân tố tối thắng thành chánh giác, cũng là điều hết sức bình thường;đáng trách là bài bác, làm tổn hại Chánh Pháp, làm chướng ngại con đường giải thoát luân hồi của vô số chúng sanh.
Trong nhà Phật từ xưa có tiền lệ: ai tuyên bố hoặc “bị lộ” mình triệt ngộ, liền nhập diệt. Nếu không, người nào chớm định sơ thiền tưởng đang trong cảnh giới Niết Bàn liền sanh ngã mạn, Phật tử tôn sùng họ quá mức kiểu như Phật tái lai không chừng cùng nhau trôi vào ác đạo. Lại nữa ma cũng có thần thông; chúng ta theo ma ắt loạn! Đức Phật từng đạt tứ thiền song Ngài tỉnh táo biết mình chưa thật sự giải thoát, mới tìmcon đường ra khỏi thập pháp giới khổ não. Thiền tức tỉnh giác trong từng niệm móng khởi. Thiền sinh nhập môn thường lấy một đối tượng nào đó quán tưởng, cột tâm. Vọng tưởng yếu dần ít dần. Cách niệm Phậthữu hiệu chư tổ gạn lọc qua thời gian là niệm từng chuỗi “A Di Đà Phật” mười câu một: 3 câu, rồi 3 câu tiếp, rồi thêm 4 câu nữa; hết chuỗi liền quay lại từ đầu. Đang niệm bỗng tự hỏi câu thứ mấy, tức biết ngay tạp niệm xem vào, nên xóa ngay vòng đó niệm lại chuỗi khác, tâm sẽ ngày một lặng. Người hạ thủ công phu ngày đêm sẽ tĩnh tọa thầm niệm trong tâm nhiều giờ liền rất an lạc. Đó là trạng thái của cận định. Để nói rằng nếu hiểu và hành rốt ráo Tịnh tông, người ta sẽ thấy niệm Phật là phép thiền, còn là thiền thậm thâm bởi trong thiền này dễ phát tuệ quán chiếu pháp thế huyễn giả và đều như. Nên người đắc Thiền sẽ không hề xem thường Tịnh, và người niệm Phật có công phu cũng không chê Thiền bởi hai sự này chẳng khác nhau. Bậc chân tu còn dạy niệm Phật khiến hành giả chóng thấy tánh.
Nhiều người tu theo kiểu gieo duyên, bảo niệm thần niệm thiên cũng như niệm Phật. Là cạn lý. Niệm Phậttâm phải tương ưng với tâm Phật (tức hành giả trước hết lấy thiện giới làm nền). Niệm Phật là niệm sâu trong tâm, tâm niệm chứ không đơn thuần miệng niệm. Chớ nhìn vào hiện tượng bề nổi niệm Phật lơi khơi rồi cho Tịnh tông là pháp cầu may cầu phước cầu hộ trì chứng quả, một pháp tu dễ dãi yếm thế. Lời khai thị của cổ đại đức: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn/ Đau mồm rát họng cũng uổng công”; “Niệm Phật có một trăm loại quả báo. Quả báo thứ nhất chính là đọa địa ngục” (là hạng vừa niệm Phật vừa hành lạc, hànhthập ác, bất kính Tam bảo, chấp pháp chấp ngã sâu dày). Ngày xưa Đạo Phật rất thịnh hành ở Ấn Độ. Một số tôn giáo vốn thờ đa thần ganh tị, không bài bác nổi nên dùng độc chiêu “bắt tay” đưa Phật vào cùng thờ chung với nhiều vị thần khác. Là một nguyên nhân thâm sâu khiến Đạo Phật một thời mất dần vị thế ở Ấn Độ. Việc niệm thần/thiên và niệm Phật tương đồng cần được nhìn nhận tỉnh táo để không đánh mất cơ hộigiải thoát đối với tín đồ thuộc tôn giáo khác, bởi bất cứ ai trên trái đất đều có thể nhận Phật Thích Ca làm Thầy một khi họ tin vào hạnh nguyện cứu độ, đánh thức Phật tánh trong mình.
Xưa nay trong Tịnh tông đếm sao hết người nương vào niệm Phật, được Phật hẹn trước ngày giờ vãng sanh. Còn gì đáng ngờ? Người cầu vãng sanh Cực Lạc một khi không buông nổi dính chấp uế trược, sẽ về đâu nếu không lòng vòng trong lục đạo. Bây giờ tham sân vẫn có thể hối lỗi, bù đắp, bởi cậy còn thân này; lúc thân hoại mạng chung thức ấy bồng bềnh chao liệng như chiếc lá khô, khởi sân hận tà niệm liền bay vèo vào địa ngục hoặc nhận thân rắt rết, khởi niệm tham liền đọa làm loài quỷ đói. Tâm vọng như dòng chảy luân hồi bất tận không lúc nào ngưng. Tâm ấy được “cài” vào chánh niệm hồng danh mạnh mẽ lấn lướt tạp niệm Ta bà; vào thời điểm cận tử nghiệp, thần thức sẽ tự bị hút về cõi thanh cao? Có bậc tôn túccảnh tỉnh, lâm chung lại tơ hào bám víu, dẫu như sợi tơ nơi ngó sen thôi cũng dễ ở lại sân ga cuộc đời. TổThiện Đạo trước lúc thị hiện vãng sanh đã dặn, đại ý: trừ Phật tái sanh nói đừng tin có Cực Lạc, còn đến như Bồ tát có bảo niệm Phật là lầm lạc cũng chớ tin. Thuần dụng trí, không thực hành như lửa cháy trên đầu người tu sẽ chấp chặt tà kiến không có chuyện Phật xuống rước người lâm chung. Phật luôn thả thuyền từ đưa người qua biển mê. Là về cõi Cực Lạc. Phật có ứng, hóa thân. Học kinh Hoa Nghiêm sẽ cảm rõ Ngài và các đệ tử thuộc hàng Bồ tát sắm vai người thường có vô số trong thế gian nhẫn nại âm thầm hóa độ mà ta nào hay!
- Tag :
- Nhụy Nguyên