Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

22. Sứ giả hòa bình

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11634)
22. Sứ giả hòa bình


Một trong những học viện lâu nhất đã theo dõi sự hình thành quyển sách này trong bao nhiêu năm, mới đây đã hỏi tôi : “Thầy thực sự mong muốn điều gì sâu xa nhất qua quyển sách này, khi nó được xuất bản?” . Khi đó trong tâm tôi hiện lên hình ảnh Lama Tseten, mà lúc còn bé tôi đã chứng kiến cái chết của ngài trong tư thái hài hòa an tịnh. Tôi buộc miệng nói : “Tôi muốn mọi người đừng sợ chết, hay cũng đừng sợ sống. Tôi muốn mọi người chết trong thanh thản, được vây quanh bởi sự chăm sóc thông minh sáng suốt nhất, nhẹ nhàng nhất, và tìm được niềm hạnh phúc tối hậu nhờ thấu hiểu thực chất, tự tánh của tâm và của thực tại”.

Thomas Merton viết : “Chúng ta có được cái gì, dù có thể lên đến cung trăng, nếu ta không vượt qua được hố thẳm ngăn cách giữa chúng ta ? Đây mới là cuộc du hành quan trọng nhất trong các cuộc du hành để khám phá, mà nếu không có nó, thì tất cả mọi chuyện khác không những vô ích, mà còn tai hại”. (Minh triết của Sa mạc, 90).

Chúng ta dùng hàng triệu Mỹ kim mỗi phút vào việc huấn luyện con người giết nhau và phá hoại, vào bom đạn và phi cơ chiến đấu. Nhưng trong khi ấy chúng ta gần như không tốn đồng nào vào việc giáo dục con người về bản chất cuộc đời và cái chết, vào việc giúp đỡ họ đối mặt và hiểu thấu những gì xảy ra khi họ chết. Tình huống này thực đáng buồn, đáng kinh hãi xiết bao, và nó thực đã cho ta thấy chúng ta vô minh đến mức nào, ta thiếu tình thương chân thật đối với chính mình và người khác đến mức nào. Hơn bất cứ gì khác, tôi cầu nguyện rằng sánh này có thể góp một phần nhỏ vào sự thay đổi tình trạng này trên thế giới, có thể thức tỉnh càng nhiều người càng tốt, làm cho họ chú ý tính cấp thiết của nhu cầu chuyển hóa tâm linh, tính cấp thiết của trách nhiệm đối với tự thân và tha nhân. Tất cả chúng ta đều có tiềm năng thành Phật, và đều mong muốn sống an ổn và chết an ổn. Khi nào thì nhân loại mới thực sự thấu hiểu điều này, thực sự kiến tạo một xã hội phản ảnh được trí tuệ đơn giảnthiêng liêng ấy trong tất cả lĩnh vực hoạt động của nó ? Nếu không có điều ấy, thì cuộc đờigiá trị gì ? Nếu không có điều ấy, làm sao ta chết thoải mái được ?

Điều tối quan trọng bây giờ là một tri kiến sáng suốt về sự chết cần được đưa vào trong thế giới ở mọi tầng lớp giáo dục. Trẻ con không nên được “che chở” cho khỏi thấy chết chóc, mà phải được khai thị, lúc chúng còn nhỏ, cho thấy bản chất thực của cái chết và những gì họ có thể học được từ cái chết. Tại sao ta không khải thị tri kiến này trong những hình thức đơn giản nhất của nó, cho tất cả mọi nhóm tuổi ? Tri kiến về cái chết, về sự làm thế nào để giúp đỡ người sắp chết, về bản chất tâm linh của sự chết, cần được truyền thông cho tất cả tầng lớp xã hội ; tri kiến ấy cần được dạy tại các trường và phân khoa đại học đủ loại ; và quan trọng nhất, tại các bệnh viện có huấn luyện cho bác sĩ và y tá điều dưỡng bệnh nhân sắp chết, những người có trách nhiệm đối với bệnh nhân.

Làm sao bạn có thể là một bác sĩ giỏi thực sự, khi bạn không có ít nhất vài tri kiến về sự thật của cái chết ? Làm sao bạn có thể thực sự giúp đỡ tâm linh người bệnh sắp chết của bạn ? Làm sao bạn có thể là một y tá giỏi, nếu bạn không khởi sự đối diện với chính nỗi sợ chết của mình, và do đó không có gì để nói với những người hấp hối khi họ hỏi bạn, nhờ bạn chỉ dẫn ? Tôi biết có nhiều bác sĩ, y tá có thiện ý, những người có tính phóng khoáng chân thành mở lòng ra mà đón nhận những tư tưởng mới, cách làm mới. Tôi cầu nguyện cách này sẽ đem lại cho họ can đảmsức mạnh mà họ cần có để giúp các cơ sở của họ thẩm thấu những bài học của giáo lý Trung Ấm này, và áp dụng. Phải chăng đã đến lúc nghề nghiệp y khoa nên hiểu rằng sự tìm tòi chân lý về sống chết, và việc chữa bệnh vốn là hai chuyện không thể tách rời ? Điều tôi hy vọng từ quyển sách này là nó sẽ giúp mọi người khắp nơi, thảo luận về những gì có thể làm được cho người sắp chết, và những điều kiện tốt nhất để làm việc ấy. Một cuộc cách mạng tâm linhthực tiễn trong việc huấn luyện bác sĩ và y tá, để chăm sóc bệnh nhân và đối xử với cái chết của họ, là điều quan yếu cấp thiết. Tôi hy vọng sách này sẽ là một đóng góp nhỏ mọn cho công việc ấy.

Tôi đã nhiều lần ca tụng công trình tiên phong đang được thực hiện trong phong trào Tiếp dẫn đường. Ít nhất tại đấy chúng ta thấy người chết được đối xử với sự kính trọng mà họ đáng được. Tôi muốn nói lên ở đây một lời thỉnh cầu tha thiết đến tất cả các nền cai trị trên thế giới, rằng họ nên khuyến khích sự tạo lập những Tiếp dẫn đường, tài trợ cho công trình này càng nhiều càng tốt.

Tôi có ý định cống hiến quyển sách này làm nền tảng cho nhiều loại chương trình huấn luyện khác nhau, những người thuộc đủ loại ngành nghề, mà nhất là những người quan hệ mật thiết đến việc săn sóc người chết : gia đình, bác sĩ, y tá, tu sĩ thuộc mọi giáo phái, cố vấn tinh thần, các nhà chữa bệnh tâm lý và những nhà tâm lý học.

Có cả một kho tàng tuệ giác y khoa trong Phật giáo Tây Tạng cũng như những tiên tri của Padmasambhava liên hệ chi tiết đến những chứng bệnh của thời đại này. Tôi cực lực kêu gọi nên đổ tiền bạc vào công trình nghiên cứu nghiêm túc về những lời dạy đáng ngạc nhiên ấy. Biết đâu người ta không tìm ra được từ đấy những phương pháp chữa những bệnh ngặt nghèo, như Sida và ung thư, và những chứng chưa xuất hiện, và làm giảm thiểu tính chất kinh khủng của nó ?

Tôi hy vọng gì từ quyển sách này ? Hy vọng gợi cảm hứng cho một cuộc cách mạng êm thấm trong toàn thể lối nhìn của ta về sự chết và săn sóc người sắp chết, cũng như lối nhìn của chúng ta về sự sống và săn sóc người sống.
 

***

Trong khi quyển sách này đang được viết ra, thì bậc thầy vĩ đại của tôi, Dilgo Khientse Rinpoche từ giã thân xác vào thứ sáu, ngày 27 tháng 9 năm 1991, ở Thimphu, Bhutan. Ngài đã 82 tuổi, và đã dành suốt đời giúp đỡ tất cả mọi người. Ai đã từng trông thấy ngài mà quên ngài được ? Ngài như núi tuyết sáng chói, sự hùng vĩ của ngài đã lan tràn nếu không có niềm an tịnh sâu xa luôn tỏa ra từ nơi ngài, cùng với tính hài hước tự nhiêntâm hỷ lạc, những dấu hiệu của thực chứng. Với tôi và nhiều người khác, ngài là bậc thầy có tầm cỡ của Milarepa, của Longchenpa, của Padmasambhava, và ngay cả của đức Phật. Khi ngài qua đời, thì như mặt trời lặn mất, để lại đêm tối đen dày, và cả một thời đại huy hoàng của nền học tâm linh Tây Tạng đã cáo chung. Dù tương lai có đem gì lại cho chúng ta, tôi chắc chắn không ai trong chúng ta sẽ còn gặp được người nào như ngài. Chỉ cần nhìn thấy ngài một lần dù trong giây lát, là cũng đã gieo trong bạn một hạt giống giải thoát mà không có gì sẽ phá hủy được, và sẽ có ngày hạt giống ấy đi đến kết nhụy đơm bông.

Có nhiều dấu hiệu kỳ lạ trước và sau khi Dilgo Khientse Rinpoche chết, chứng tỏ tầm mức vĩ đại của ngài, nhưng cái điềm làm cho tôi kinh hãi nhất thì xảy ra cách xa bốn ngàn dặm Anh, ở miền Nam nước Pháp, tại một nơi gọi là Lerab Ling, gần Montpellier, nơi này sẽ được hiến cúng để thành lập một trung tâm nhập thất dưới ân đức của ngài. Xin để cho một trong những học trò tôi đang sống và làm việc tại trung tâm kể cho bạn nghe những gì đã xảy đến :

“Sáng hôm ấy bầu trời tối lâu hơn thường lệ, và dấu hiệu đầu tiên của bình minh là một đường dài màu đỏ thật sâu ở chân trời xa. Chúng tôi sắp xuống phố, và khi đến gần chót đỉnh con đường của chúng tôi, cái lều vải dựng tạm làm chỗ thờ, nơi sẽ xây chánh điện, hiện ra trên đỉnh đồi bên phải chúng tôi. Thình lình một chùm tia sáng mặt trời thật sắc, xoáy vào ánh sáng mờ ban mai và chiếu ngay vào cái lều trắng, làm nó sáng lên rực rỡ. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi, và khi tới gần khúc quanh để xuống phố, một cái gì thúc đẩy chúng tôi nhìn lại ngôi lều. Bây giờ trời đã sáng. Chúng tôi kinh ngạc. Một ráng cầu vồng trải dài khắp thung lũng, màu sắc nó sáng chói, sống động, đến nỗi ta như có thể với tay ra mà sờ được. Nó vươn lên từ chân trời phía trái chúng tôi, làm thành một vòng cung bắc ngang bầu trời. Điều mầu nhiệm là không có dấu hiệu gì là sắp mưa cả, chỉ có cái ráng cầu vồng xuất hiện linh động, rực rỡ nổi bật trên nền trời trống trải mênh mông. Chỉ đến chiều hôm sau đó chúng tôi mới biết tin đấy chính là ngày mà Dilgo Khientse Rinpoche từ trần ở Bhutan. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy chắc chắn rằng cầu vồng ấy là dấu hiệu ngài đã ban phước xuống cho tất cả, và cho vùng đất Lerab Ling”.
 

Khi đức Phật nằm niết bàn trong một khu rừng ở Kushinagara (Câu thi na) xung quanh có 500 đệ tử, Ngài đã dạy những lời cuối cùng : “Tất cả pháp hữu vi đã sinh thành đều sẽ phải hoại diệt, tan rã. Các con hãy nỗ lực tinh tiến đạt đến sự toàn thiện” . Những lời dạy ấy vẫn thường trở lại với tôi từ khi thầy Dilgo tôi từ trần. Có lời dạy nào sâu sắc về vô thường hơn cái chết của một bậc đạo sư tối thượng, đã từng như là cột trụ của thế gian ? Cái chết ấy làm cho chúng tôi, những người biết ngài, những đệ tử của ngài, cảm thấy bơ vơ, bị ném trở lại chính mình. Bây giờ chúng ta phải tự mình tiếp tục tiến lên và cố hết sức mình để thể hiện truyền thống giáo lý mà ngài đã đại diện một cách cao cả. Chúng ta phải tự mình làm những gì mà đệ tử Phật đã làm, khi bị bỏ lại trên thế gian này, không còn được ánh sáng trí tuệ của ngài dìu dắt : đó là “hãy nỗ lực tinh tiến để đạt đến toàn thiện” .

Cái cầu vồng bắc qua bầu trời nước Pháp, ở thung lũng Lerab Ling là một điềm triệu Dilgo Khientse Rinpoche đang ban phước và sẽ tiếp tục ban phước cho toàn thế giới. Khi đã thoát khỏi thân xác, ngài sống trong thế giới huy hoàng vượt ngoài thời - không của Pháp thân, có năng lực như những bậc đã giác ngộ, là có thể giúp đỡ chúng sanh không hạn cuộc. Hãy tin tưởng ở sự chứng đắc của ngài, và kêu cầu ngài với tất cả lòng thành, thì bạn sẽ thấy ngài ở bên bạn tức khắc. Làm sao ngài, người yêu thương tất cả chúng sanh với tình yêu toàn hảo như vậy, có thể bỏ rơi chúng ta được ? Và ngài sẽ đi đâu, con người đã nhập làm một với tất cả ấy ?

Thật may mắn cho chúng ta, rằng một bậc thầy như ngài, nhập thể của truyền thống Tây Tạng, đã ở với chúng ta 30 năm nay sau khi xứ sở Tây Tạng bị diệt vong. Ngài đã giảng dạy trong vùng Hy Mã Lạp Sơn, Ấn Độ, Âu châu, Á châu và Hoa Kỳ. Chúng ta thực may mắn làm sao đã có được hàng trăm giờ thu băng giọng nói và lời dạy của ngài, nhiều băng hình ghi lại vài nét hùng vĩ của sự hiện diện ngài, một vài phần của dòng thác từ tâm giác ngộ của ngài, đã được dịch ra Anh ngữ và nhiều ngôn ngữ khác. Tôi đặc biệt nghĩ tới những giáo lý ngài dạy ở miền Nam nước Pháp, gần Grenoble vào năm cuối của đời ngài. Lúc đó, nhìn ra thung lũng và đồi núi, một khung cảnh gần như có cái hùng vĩ của Tây Tạng, ngài đã ban ân sủngtruyền giáo lý Dzogchen, một giáo lý quan trọng nhất, cho một ngàn rưỡi học viên, nhiều người trong đó là học trò tôi từ khắp thế giới, một điều làm cho tôi sung sướng vô cùng. Những bậc thầy hiện diệncảm tưởng rằng qua hành vi cuối của đời ngài, Dilgo Khientse Rinpoche đang ban ấn tín cho việc giảng dạy những giáo lý này ở Tây phương, và đã ban phước cho sự đón nhận của họ bằng năng lực của nhiều đời thiền định nơi ngài. Về phần tôi, tôi cũng đang ban phước cho tất cả những gì tôi đã cố thực hiện cho nền giáo lý ấy từ bao năm ở Tây phương.

Nghĩ về Dilgo Khientse Rinpoche và những gì ngài đã làm cho nhân loại là nghĩ về tính vĩ đại của món quà tặng mà Tây Tạng hiến cho thế giới, được tập trung và được hiển lộ nơi một con người duy nhất.

Tôi luôn nghĩ rằng, không phải là chuyện tình cờ khi xứ sở Tây Tạng cuối cùng đã mất, đúng vào lúc Tây phương sắp mở tâm mở trí để đón nhận những truyền thông của trí tuệ phương Đông. Vậy, ngay vào lúc Tây phương trở nên sẵn sàng đón nhận, thì một vài giáo lý sâu xa của truyền thống ấy, vốn từ lâu được bảo trì trong niềm cô tịch của núi Tuyết Tây Tạng, bây giờ có thể ban bố cho nhân loại. Điều thiết yếu hiện nay của chúng tacố gắng duy trì bằng mọi giá, truyền thống tuệ giác sống động ấy, mà người dân Tây Tạng đã chịu vô lượng khổ đau để làm cho chúng ta có được. Hãy nhớ đến họ luôn luôn trong tim chúng ta, và chúng ta hãy làm việc để thấy có ngày xứ sở Tây Tạng và những truyền thống của xứ sở ấy được phục hồi. Những giáo lý vĩ đại mà tôi đã san sẻ với bạn hiện giờ không được phép tu tập công khai trên đất Tây Tạng bởi chính những người đã có công bảo trì chúng. Mong sao sẽ có ngày các Tăng viện và Ni viện của Tây Tạng sẽ vươn lên từ đống tro tàn đổ nát, và những khoảng trống bao la của xứ Tây Tạng sẽ được hiến cho nền hòa bình thế giới và sự theo đuổi giác ngộ của tất cả mọi người.

Một phần lớn của tương lai nhân loại có thể tùy thuộc vào sự tái lập một xứ Tây Tạng tự do, một xứ Tây Tạng sẽ đóng vai trò của một Thánh địa cho những người tìm chân lý thuộc mọi truyền thống tín ngưỡng, vai trò trái tim tuệ giác của một nhân loại tiến hóa, vai trò phòng thí nghiệm để thử nghiệm những tuệ giác cao nhất, những kỹ thuật thiêng liêng nhất, để nó sẽ thành một nguồn cảm hứng giúp toàn nhân loại trong giờ phút lâm nguy. Thật khó tìm được khung cảnh toàn hảo cho việc tu tập tuệ giác ấy trong một thế giới như thế giới Tây phương chúng ta. Một xứ Tây Tạng được hồi phục, được tịnh hóa bởi bi kịch đau thương sẽ là khung cảnh lý tưởng, và điều này thực cấp thiết cho sự tiến hóa của loài người.

Tôi muốn hiến tặng sách này cho hàng trăm ngàn người chết trong sự khủng bốTây Tạng, chết với đức tin của họ và với tri kiến kỳ tuyệt của giáo lý Phật. Tôi cũng muốn hiến tặng cho những người đã chết ở thế kỷ này trong những tình huống tương tự : người Do Thái, người Cao Mên, người Nga ; cho những nạn nhân hai cuộc thế chiến, cho tất cả những người chết bị bỏ rơi, bị quên lãng, và cho tất cả những người đang tiếp tục bị tước hết cơ hội tu tập con đường tâm linh của họ.

Nhiều bậc thầy tin rằng giáo lý Tây Tạng đang bước vào một thời đại mới. Có những lời tiên tri của Padmasambhava và nhiều bậc thầy thấu thị khác đã nói trước về việc giáo lý truyền đến Tây phương. Bây giờ thời gian ấy đã đến, và tôi biết rằng giáo lý sẽ khoác một đời sống mới. Đời sống mới này cần thay đổi, nhưng tôi tin rằng bất cứ một mô phỏng nào cũng phải tuôn phát từ một tri kiến sâu xa, để tránh phản bội sự thuần tịnh trong sáng của truyền thống hay năng lực của nó, hay tính “phi thời gian” của chân lý. Nếu có sự hiểu biết sâu xa về truyền thống phối hợp với ý thức thực tế về những vấn đềthử thách của thời đại, thì sự mô phỏng có thể tăng cường, mở rộng, làm phong phú thêm truyền thống, làm hiển lộ những tầng lớp sâu xa của giáo lý, và giúp cho việc ứng dụng giáo lý được hiệu quả hơn, trong việc đối phó với những khó khăn ngày nay.

Nhiều bậc thầy vĩ đại của Tây Tạng đã viếng thăm Tây phương trong 30 năm sau này, bây giờ đã viên tịch, và tôi tin chắc họ đã cầu nguyện cho giáo lý này sẽ lợi lạc không những cho người Tây Tạng, cho Phật tử mà thôi, mà còn cho cả toàn thế giới. Tôi nghĩ người Tây phương biết rõ tầm giá trị của giáo lý này khi họ đâm ra sẵn sàng đón nhận. Tôi nghĩ đến Dudjom Rinpoche và Karpama, những bậc thầy vĩ đại đã chọn để chết ngay trên đất Tây phương, như thể cốt ban phúc cho Tây phương bằng năng lực giác ngộ của các ngài. Mong sao những lời cầu nguyện của các ngài - cho thế giới được chuyển hóa, cho tâm trí nhân loại được soi sáng - được ứng nghiệm ! Mong sao cho chúng ta, những người hấp thụ giáo lý các ngài sẽ ý thức trách nhiệm đối với giáo lý ấy, và nỗ lực thể hiện giáo lý.

Thử thách lớn nhất mà một truyền thống tâm linh như Phật giáo phải đương đầu trong giai đoạn chuyển tiếp này từ khung trời cũ đến Tây phương là, làm thế nào trong một thế giới quay cuồng lăng xăng siêu tốc này, những người học giáo lý có thể tìm phương thức để thực hành giáo lý với một tâm linh bình thản và tính kiên trì mà họ cần, để có thể chứng ngộ sự thật của giáo lý. Sự huấn luyện tâm linh chung quy là hình thái giáo dục cao thượng nhất, đòi hỏi nhiều điều kiện nhất, và phải được theo đuổi với sự dấn thân, chuyên cầnhệ thống như bất cứ sự huấn luyện nghiêm túc nào khác. Làm sao có thể chấp nhận rằng, muốn thành một bác sĩ phải trải nhiều năm học và thực tập, thế mà với con đường tâm linh để sống ở đời, chúng ta lại chỉ cần một sự ban phép tình cờ, những lễ quán đảnh điểm đạo qua loa, và lâu lâu mới gặp vài bậc thầy chỉ để chào hỏi ? Trong quá khứ, người ta ở lại luôn một nơi để theo thầy suốt cả đời. Hãy nghĩ đến Milarepa, đã phụng sự Marpa hàng nhiều năm trước khi đủ trưởng thành tâm linh để rời thầy mà tự tu tập. Sự huấn luyện tâm linh cần một sự truyền trao liên tục, làm việc và học với thầy, theo thầy với niềm hăng say và sự thiện xảo tinh tế. Vấn đề chính của việc giảng dạy tương lai ở trong thế giới tân tiến là làm sao để giúp cho những người theo giáo lý tìm được môi trường nội tâmngoại cảnh thích hợp để thực hành giáo lý, chứng ngộthể nhập tinh yếu của nó.

Giáo lý của mọi con đường huyền học trên thế giới cho thấy rõ rằng trong ta có một bình chứa năng lực khổng lồ, năng lực từ bi và trí giác, năng lực mà Ki-tô giáo gọi là Cung điện nhà trời, hay Nước chúa. Nếu ta biết cách sử dụng - và đây là mục đích con đường đi tìm tuệ giác - thì năng lực ấy không những có thể chuyển hóa bản thân ta, mà cả thế giới quanh ta. Có thời nào cấp thiết hơn bây giờ, để có được sự xử dụng sáng suốt năng lực thiêng liêng ấy ? Có thời nào cấp thiết hơn bây giờ để hiểu thấu bản chất của năng lực thuần túy ấy, hiểu cách điều hướng nó để lợi lạc cho thế giới ? Tôi cầu nguyện tất cả những ai đọc sách này sẽ có thể hiểu thấu và tin tưởng năng lực của giác ngộ, và trực nhận bản chất của tâm ; vì nhận ra bản chất tâm bạn cũng có nghĩa là làm phát sinh một tri kiến sẽ thay đổi toàn bộ thế giới quan của bạn, giúp bạn tự nhiên khám phá và phát triển một ước muốn đầy bi mẫn, mong giúp đỡ tất cả mọi hữu tình, đồng thời cũng phát triển được một cái biết về cách giúp đỡ tốt nhất, trong bất cứ tình huống nào. Tôi cầu nguyện cho các bạn sẽ thấm được vào tâm khảm chân lý sống động trong lời này của Nyoshul Khenpo :

Một lòng bi mẫn tự nhiên có thể phát sinh đối với những người chưa nhận ra chân tánh của mình. Lòng bi mẫn ấy rào rạt bao la đến độ nếu nước mắt có thể bộc lộ được thì bạn sẽ khóc không bao giờ ngưng. Không những tâm đại bi, mà còn phương tiện thiện xảo cũng sẽ phát sinh khi bạn đã trực ngộ bản tâm. Hơn nữa, bạn còn tự nhiên giải thoát khỏi mọi khổ đau sợ hãi, như sợ sự sanh ra, sợ cái chết và giai đoạn Trung Ấm. Khi ấy, nếu bạn phải nói lên niềm vui và phúc lạc do sự chứng ngộ mang lại, thì dù bạn có đem tất cả vinh quang, hưởng thụ, khoái lạc, và hạnh phúc trên đời gom lại, cũng không thể diễn tả được một nhần nhỏ xíu của niềm phúc lạc mà bạn có được khi trực ngộ bản tâm.

Phụng sự thế giới bằng năng lực trí tuệtừ bi có nghĩa là tham dự một phần tích cực vào việc bảo trì hành tinh này. Những bậc thầy thuộc các truyền thống tôn giáo bây giờ đã hiểu rằng tu tập là điều thiết yếu không những chỉ dành cho Tăng Ni, mà cho tất cả mọi người, thuộc mọi tôn giáo, mọi lối sống. Những gì tôi cố chứng minh trong sách này là tính vô cùng thiết thực, năng độnghiệu nghiệm của sự phát triển tâm linh. Một lời dạy nổi tiếng của Tây Tạng là : “Khi thế giới đầy những sự ác, thì mọi tai ương cần phải được chuyển hóa thành con đường giác ngộ”. Mối nguy mà tất cả chúng ta đang vướng phải đã khiến cho việc tu tập trở nên cấp thiết, đến nỗi ta không còn xem sự phát triển tâm linh như là một xa xí phẩm, mà như một điều kiện cần thiết để sống còn.

Ta hãy tưởng tượng rằng thế giới sẽ như thế nào nếu trong đó có một số lượng đáng kể những người tóm lấy cơ hội mà giáo lý đã chỉ, để dành một phần của đời họ cho việc tu hành nghiêm chỉnh, để trực nhận bản tâm, và do vậy xử dụng cơ hội cái chết của mình để tiến gần hơn tới Phật quả, và tái sanh với một mục đích duy nhấtphụng sự và làm lợi lạc mọi người.

Quyển sách này đang đem lại cho bạn một kỹ thuật thiêng liêng, nhờ đó không những bạn có thể chuyển hóa cuộc đời hiện tại của bạn, chuyển hóa sự hấp hối và cái chết của bạn, mà còn chuyển hóa cả những đời sau của bạn, và do đó chuyển hóa cả tương lai nhân loại. Những gì mà những bậc thầy tôi và tôi hy vọng khơi nguồn nơi đây, là một bước nhảy tiến tới sự thăng tiến có ý thức của con người. Học cách thế nào để chết cũng là học cách sống ; học cách sống cũng là học làm thế nào để hành động không những trong đời này mà cả trong những đời sắp đến. Thực sự chuyển hóa bản thân và học làm sao để tái sinh như một ứng hóa thân để giúp người khác, chính là giúp đỡ nhân loại bằng cách hữu hiệu nhất.

Tuệ giác đầy bi mẫn của truyền thống chúng tôi và sự đóng góp cao quý nhất của nó cho trí tuệ tâm linh của nhân loại là sự hiểu và hành lý tưởng Bồ-tát, con người nhận lãnh hết đau khổ cho mọi hữu tình, người khởi hành lên đường giải thoát không những cho một mình mình, mà còn để giúp đỡ người khác, người mà cuối cùng, sau khi đạt giải thoát tối hậu, không tan biến vào trong bầu trời tuyệt đối hay trốn khỏi nỗi thống khổ của sinh tử, mà tự nguyện trở lại nhiều lần để hiến mình phụng sự toàn thế giới bằng năng lực từ bitrí tuệ. Điều mà thế giới cần hơn bất cứ gì, đó là những sứ giả tích cực của hòa bình như vậy, những sứ giả “mặc áo giáp nhẫn nhục”, những người sống cho lý tưởng Bồ-tát và sống để gieo rắc trí tuệ vào mọi lĩnh vực kinh nghiệm chúng ta. Chúng ta cần những Bồ-tát luật sư, Bồ-tát nghệ sĩ, Bồ-tát chính trị gia, Bồ-tát bác sĩ, Bồ-tát kỹ sư và chuyên viên, những Bồ-tát ở khắp nơi đang làm việc một cách tận tâm như những kênh truyền của trí tuệđại bi ở mọi tầng lớp và hoàn cảnh xã hội, đang hoạt động để chuyển hóa bản thân và người khác, làm việc không mệt mỏi vì biết chắc có sự nâng đỡ của chư Phật và những bậc giác ngộ, để giữ gìn thế giới và tiến đến một tương lai khá hơn. Teillard de Chardin nói : “Một ngày kia, sau khi chúng ta đã làm chủ được những cơn gió, những ngọn sóng, thủy triều và lực hấp dẫn… chúng ta sẽ khởi động năng lực của tình yêu. Khi ấy, lần thứ hai trong lịch sử loài người, con người sẽ tìm ra ngọn lửa” .

Một trong những hy vọng sâu xa nhất của tôi khi viết sách này là nó sẽ làm một người bạn trung thành cho bất cứ ai chon con đường trở thành một Bồ-tát, một nguồn dìu dắtcảm hứng cho những người thực sự đối mặt với những thử thách của thời đại, và vì lòng bi mẫnkhởi hành lên đường tuệ giác. Mong sao họ không bao giờ mệt mỏi hay thất vọng, vỡ mộng ; mong cho họ đừng bao giờ hết hy vọng dù có gặp bao nhiêu gian khó, chướng ngại, hãi hùng. Mong sao những chướng ngại ấy chỉ làm tăng thêm quyết tâm nơi họ. Mong sao họ vững lòng tin ở tình yêu và năng lực của các đấng giác ngộ đã và đang gia trì cho trái đất bằng hiện diện của các ngài ; mong sao họ noi gương những bậc thầy vĩ đại đã y theo lời di giáo của Phật mà suốt đời nỗ lực tinh tiến để đạt đến toàn thiện. Mong sao cái thế giới mà nhiều bậc thầy huyền học thuộc mọi truyền thống đã tiên đoán, nhờ nỗ lực của tất cả chúng ta mà sẽ thành hiện thực : một thế giới tương lai không còn bạo hành, khủng bố, ở đấy nhân loại có thể sống trong hạnh phúc vì đã trực nhận bản tâm. Tất cả chúng ta hãy cầu nguyện cho được thế giới tốt đẹp ấy, cùng với Shantideva và thánh Francis :

“Hư không còn tồn tại,
hữu tình còn tồn tại,
thì nguyện của tôi vẫn còn.
Đó là cái ước nguyện xóa tan thống khổ của cuộc đời”.

“Xin Cha hãy biến con thành khí cụ hòa bình của ngài.
Nơi nào có thù hận, cho con gieo rắc tình yêu.
Nơi nào có tổn thương, mang lại tha thứ.
Nơi nào có hoài nghi, mang lại niềm tin.
Nơi nào tuyệt vọng, mang lại hy vọng.
Nơi nào có bóng tối, mang lại ánh sáng.
Nơi nào có buồn khổ, mang lại niềm vui.

Lạy Cha,

Xin cho con an ủi người khác hơn là được an ủi;
Cho con cảm thông người khác hơn là được cảm thông;
Cho con yêu thương người khác hơn là được yêu thương;
Vì chính trong khi cho, là ta được nhận;
Khi tha thứ, là ta được tha thứ;
Và chính khi chết, là ta sinh vào đời sống vĩnh cửu”.

 
Xin dâng hiến sách này lên những bậc thầy tôi : với những bậc thầy đã quá vãng, mong ước nguyện các ngài được thành tựu ; với những bậc thầy còn sinh tiền, mong các ngài trường thọ, công trình thiêng liêng vĩ đại của các ngài sẽ gặp thành công sáng chói, mong sự giảng dạy của các ngài sẽ gợi cảm hứng cho tất cả hữu tình. Tôi thiết tha thành khẩn cầu nguyện cho Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche sẽ chóng tái sanh trong một nhập thể đầy năng lực giác ngộ để cứu giúp chúng ta qua những hiểm nguy của thời đại này.

Xin hiến tặng sách này cho tất cả những người đã chết có nhắc tới trong sách : Lama Tseten, Lama Chokden, Samten, Ani Pelu, Ani Rilu và A-pé Dorje. Xin bạn nhớ tới họ mỗi khi cầu nguyện, và nhớ cả những học trò của tôi đã chết và đang chết, những người mà lòng sùng tíncan đảm đã gây cho tôi nhiều cảm khái.

Xin hiến tặng quyển sách này cho tất cả hữu tình đang sống, đang chết hay đã chết. Đối với những người vào giờ này đang kinh quá tiến trình chết, mong rằng họ chết được an ổn, không đau đớn hãi sợ. Mong rằng tất cả những người đang sinh ra trong lúc này, và những người đang vật lộn với sự sống, hãy được nuôi dưỡng bằng ân phước chư Phật, mong họ gặp được giáo lýđi theo con đường trí tuệ. Mong đời họ được hạnh phúc hữu hiệu, thoát khỏi mọi lo buồn. Mong bất cứ ai đọc sách này sẽ rút được nhiều lợi lạc bất tận từ đấy, và mong cho giáo lý trong này chuyển hóa tâm trí họ. Đây là lời cầu nguyện của tôi.

Mong sao mỗi một chúng sanh trong sáu cõi luân hồi cùng đạt đến nền tảng của sự toàn hảo tối sơ!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 163)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 215)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 409)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 308)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 338)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 386)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 622)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 678)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 637)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 685)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 599)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 541)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 594)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 686)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 702)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 800)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 598)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 492)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 574)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 668)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 588)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 591)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 695)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 710)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 703)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 768)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 791)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 768)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 961)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 828)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1386)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 913)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1078)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 832)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1061)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 991)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 980)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1122)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1398)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 971)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1158)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 969)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 817)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 947)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 972)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1394)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1142)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1173)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 924)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1068)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1518)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1398)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1391)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 980)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1374)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1288)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1213)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1252)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant