Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện Chùa Chiền

07 Tháng Bảy 201902:40(Xem: 4738)
Chuyện Chùa Chiền

Chuyện Chùa Chiền

Trần Thị Nhật Hưng

  Có lần một sư cô thuyết giảng, ví von nhà chùa như một nhà thương trị bịnh tinh thần, điều này ngẫm nghĩ không hoàn toàn đúng nhưng không hẳn là sai, tùy cái nhìn của mỗi người thôi. Bởi vì cũng có nhiều người đến chùa với tâm thái bình an, muốn nghiên cứu học hỏi giáo lý nhà Phật. Hay mộ đạo, đến để hỗ trợ đạo. Cũng có người như các cụ già thích đến chùa vì thích không khí nhà chùa, làm công quả đóng góp công sức, tịnh tài, tìm khoây khỏa trong tuổi già mong qui tiên được về cõi Phật. Kẻ thì đến chùa để cầu an, cầu siêu, cầu xin đủ thứ...v.v.và.v.v...Tựu trung dù từ nhân duyên nào cũng đều là có duyên với Phật

  Riêng tôi, nếu ví nhà chùa như bịnh viện tinh thần, tôi thấy cũng có lý. Vì rõ ràng quí sư đã chẳng nói đạo Phật là đạo cứu khổ ban vui. Do vậy đến chùa quan sát kỹ sẽ thấy, cũng không thiếu người góa chồng, góa vợ, li dị, hoặc chán ngán chuyện gia đình, hay đang cô đơn, cô độc...lân la đến chùa để giải tỏa nỗi lòng tìm niềm vui. Người thì rán nghe Pháp Phật chiêm nghiệm nghiệp quả mình tạo ra rồi tụng kinh sám hối, kẻ thì kể lể với bạn đạo để trút hết bầu tâm sự  hay đôi khi trút cả đến những vị trụ trì nhờ “gỡ rối tơ lòng“. Tựu trung là tìm cách để giải tỏa nỗi khổ niềm đau.

   Có điều, không hẳn đến chùa sẽ luôn được an lạc, như bịnh nhân đến thăm bác sĩ đâu phải ai được chữa trị cũng hết bịnh đâu. Do vậy, khối người đến chùa lại chuốc thêm phiền não cho mình còn lây lan sang người khác, giống như bịnh truyền nhiễm vậy. Đôi khi còn là bịnh nan y bác sĩ bó tay, chỉ đưa về nhà nằm chờ chết. Cũng vậy, người đến chùa cầu mong an lạc, cầu sự giải thoát cho tâm hồn, nếu không tìm thấy những điều mong muốn, tự nhiên ở nhà, thế thôi. Nhưng theo tôi, người Phật tử chân chính cầu đạo, nhất là những Phật tử đang làm việc trong chùa, trước mọi khó khăn sẽ không sờn lòng, đôi khi xem nghịch cảnh là bài học để mình thử thách, tu tập, chuyển hóa địa ngục thành Niết Bàn. Nếu được như thế coi như đã đạt chánh quả ngay trên cõi đời này. Người bịnh coi như hết bịnh. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp, đứng trước ngọn núi cao, quá chênh vênh hiểm hóc không vượt qua được, hoặc trước dòng sông quá sâu, nước chảy xiết không bơi được thì tính sao đây, đành tìm lối khác mà đi, đổ cho tại “nhân duyên“, còn duyên thì hợp, hết duyên thì đi. Đức Phật có 84.000 pháp môn để tu, thôi thì, tu cách nào, đến chùa, hay tu tại gia, hay tu giữa chợ cũng đều tu được tùy theo căn cơ trình độ, sở thích của mỗi người, không ai lên án ai cả. Tục ngữ Việt Nam đã chẳng có câu:“Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa“để xác minh có ba nơi để tu, tu đâu cũng được mà.

   Trở lại việc trong chùa. Nhà chùa đa số phụ nữ đến nhiều hơn nam giới. Điều đó không ai phủ nhận. Nhiều câu hỏi đặt ra tại sao thì cũng có nhiều câu trả lời tùy theo quan điểm của mỗi người.

    Người thì cho rằng đã mang thân nữ là nghiệp nặng. Nghiệp từ kiếp nào đã thiếu tu còn gây bao lầm lỗi, nên bị đọa làm thân nữ giờ đến chùa để giải nghiệp. Có kẻ thì cho do phụ nữ nhẹ dạ dễ mê tín dị đoan bị mê hoặc bởi tôn giáo. Ngược lại, không thiếu người binh vực, đánh giá phụ nữniềm tin mạnh mẽ hơn nam giới, đến để hộ đạo, làm công quả giúp chùa, cúng dường, xây dựng, duy trì và phát triển Tam Bảo... Nói chung chín người mười ý. Nói sao cũng được hết. Nhưng một điều rõ ràng chắc chắn nhất là Đức Phật đã nhìn ra tâm tánh của phụ nữlắm chuyện“, biết rõ phụ nữ tuy cũng hữu ích cho chùa chiền, cho Phật giáo, nhưng sự hiện diện lai vãng của họ cũng... làm phiền nhà chùa không ít, đó là lý do, thời Đức Phật đã không cho phép nữ giới đi tu cho mãi khi có lời cầu xin khẩn khoản của Ngài A Nan, thị giả và là đệ tử ruột của Đức Phật, Đức Phật mới cho phép, nhưng Ngài phán rằng, để phụ nữ xen vô, giáo Pháp của Ngài sẽ trì trệ mất 500 năm!

   Lời phán của Phật thì chắc chắn không sai.

   Vậy bây giờ ta hãy nhìn xem và phân tích, chuyện các bà đến chùa đã, và đang xảy ra những gì nhé.

   Các bà đến hộ đạo, giúp chùa nhiều thứ, phải nói là rất đáng khen, đáng ngưỡng mộ. Từ hoa quả bày biện trang trí chánh điện đến khâu hậu cần lo cơm nước trong ban trai soạn, rồi dọn dẹp lau chùi, quét nhà, rửa chén, làm bánh trái phát hành tăng ngân quĩ cho nhà chùa…v.v… đều là nhờ các bà, thiếu bàn tay các bà là không xong. Tuy nhiên, bên cạnh công lao đó các bà cũng quấy đạo, quấy chùa không ít. Đức Phật cũng phải... ngán các bà, huống là quí sư ngày nay, sức đâu, thời gian đâu mà giải quyết nổi những tranh chấp, thị phi, tị nạnh, ganh ghét của các bà, chưa kể còn... chới với không ít dưới bóng dáng lẳng lơ đẩy đưa của mấy cô Thị Mầu khiến có thầy lầm đường lạc lối, đôi khi còn kéo ông thầy ra khỏi chùa đi mất đất luôn. 

   Này nhé, chỉ nội việc thương quí thầy, nhìn ông thầy dưới nhãn quan như một thần tượng, một vị Phật, không bê tha cờ bạc, rượu chè nhậu nhẹt hút sách ăn chơi đàng điếm thiếu trách nhiệm với gia đình như những ông chồng của các bà, là các bà xúm nhau thương. Nhưng nếu thương với cái trí Bát Nhã lo hộ đạo hộ chùa đem niềm an lạc đến cho mọi người thì tuyệt vời quá, nói làm gì, đàng này với cái tâm chúng sinh, các bà có chút công lao, hay cúng dường nhiều là cái ngã nâng cao, lên mặt, nghĩ chùa là của mình, ông thầy là của mình rồi  nắm giữ, cột chặt không chỉ làm khổ ông thầy còn gây thêm bao phiền não cho thiền môn nữa. 

    Nội việc chăm sóc thầy, bà nào cũng có tâm chăm lo và chỉ mong ông thầy chiếu cố. Một bát chè, chén xôi dâng đến cũng ghé mắt theo dõi ông thầy dùng phẩm vật của mình hay của người khác. Ông thầy nhắp chén chè của mình là lòng hỉ hả nở hoa. Bằng trái lại, buồn héo hắt, lần sau hết nấu luôn. Hoặc đôi khi một ly nước dâng thầy, thầy không khát giao cho bà khác uống cũng không xong. Thầy thân cận hỏi thăm, trò chuyện thân mật với ai, không với mình là lòng buồn tê tái, mặt xệ xuống chằm dằm như cái cối đá rồi bỏ chùa không thương tiếc. Thật khổ thân cho ông thầy, được thương mà… thương cái xương không còn!

    Nhưng cũng không nên đổ lỗi hoàn toàn tại quí bà. Bản chất phụ nữ là thế, nhưng cũng không phải không có cách giải quyết nếu vị sư lãnh đạo là một minh sư, cao tăng điều hành một cách khéo léo tuyệt vời thì mọi sự cũng yên thôi.

    Ngày xưa ở Trung Hoa, tương truyền vua Nghiêu nghe tiếng Trọng Hoa là người hiếu đạo biết tu thân, liền gả một lúc hai nàng con gái của mình là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng về làm vợ Trọng Hoa để thử tài Trọng Hoa...tề gia điều khiển hai bà vợ như thế nào, trước khi trao ngai vàng cho Trọng Hoa trị quốc theo lộ trình tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trọng Hoa chính là vua Thuấn đã “tề” được hai bà, bình được thiên hạ tạo cho xã hội thái bình an lạc vang danh muôn thuở. Điều đó nói lên rằng, hễ…khiến, điều khiển được các bà trong ấm, ngoài êm thì mới mong nghĩ đến việc đại sự khác.

   Trong chùa cũng vậy, nếu vị sư, nhất là trong vị trí trụ trì không khác gì làm dâu trăm họ trước các bà mẹ chồng khó tính khó nết, đòi hỏi phải xử sự cực kỳ khéo léo, công bằng, hòa ái, nội lực thâm hậu; trước phải tu thân, hành xử đúng đắn làm gương cho người khác mới đắc nhân tâm, chẳng những yên thân mình mà còn được các bà nể trọng xúm nhau phù trợ thì không riêng nhà chùa an lạc còn giúp Phật giáo phát triển vượt bực từ tài năngtín tâm của các bà. Bởi vì, một câu nói ghi rằng  “Chúng ta cũng có thể tìm thấy Phật qua hình dáng các vị cao tăng tu hành chân chánh, giới đức tròn đầy; các vị là Trưởng tử của Như Lai, đại diện cho Phật để chúng sinh có chỗ nương tựa, qui ngưỡng; nhưng nếu là kiêu tăng phạm giới, không giữ lục hòa thì Phật sẽ ẩn, ma sẽ hiện. Các vị kiêu tăng chính là người phá Phật, hại Pháp mạnh hơn tà ma ngoại đạo nhiều lắm

    Cuối cùng, để giải quyết vấn nạn nhà chùa, để chùa được bình yên, an lạc và như là “bịnh viện tinh thần” chữa trị những nỗi khổ niềm đau thì nhà chùa cần dùng đúng thuốc do Đức Phật chế, toa thuốc mang tên Lục Hòa, trong có 6 vị:

1-      Thân hòa đồng trú: Cùng vui vẻ sinh hoạt dưới một mái chùa. 

2-      Khẩu hòa vô tránh: Thành ngữ có câu “họa tòng khẩu xuất” (họa do cái miệng mà ra), một lời nói ra “tứ mã nan truy” do vậy nói năng cẩn trọng, dùng ái ngữ nhẹ nhàng, từ tốn, hòa nhã, lịch sự, dù trái ý cũng không đưa đến tình trạng tranh cãi, hờn dỗi, nhìn nhau bằng ánh mắt gờm ghè.

3-       Ý hòa đồng duyệtMọi ý kiến đều đưa ra chia xẻ, bàn bạc trong tâm ý hòa hợp cùng lắng nghe nhau để thấu hiểu cảm thông nhau.

4-       Giới hòa đồng tuCùng tôn trọngtuân thủ những giới luật mà mình đã thệ nguyện.

5-       Kiến hòa đồng giải:Trao đổi sự hiểu biết, giải bày mọi ý kiến, kinh nghiệm trong tinh thần hòa hợp.

6-       Lợi hòa đồng chiaVui vẻ chia xẻ những quyền lợi vật chất một cách hợp lý không tổn hại đến quyền lợi chung.

 

Toàn những vị thuốc trụ sinh diệt trừ Virus mang tên tự ngã, ích kỷ, tư lợi luôn đặt cái tôi, cái của tôi trên hết để khi sinh hoạt dưới một mái chùa mới có thể sống bên nhau, chia xẻ, bàn bạc, lắng nghe, trao đổi, cảm thông và thấu hiểu nhau trong tinh thần hòa kính... “Tứ chúng đồng tu“.

   Vâng, chính thế. Tới chùa, tứ chúng đồng tu không chỉ dành cho nam, nữ cư sĩ Ưu bà Tắc, Ưu bà Di tu mà còn Tăng và Ni nữa.

   Phương thuốc thần dược của Đức Phật đã có sẵn, là con Phật, chúng ta kính cẩn tôn trọng, khi chưa hết bịnh, thì cứ sắc mãi uống hoài, dù thuốc có đắng, khó nuốt nhưng “thuốc đắng mới dã được tật” đã đúng thuốc thì chắc chắn thế nào cũng khỏi. 

Nào, chúng ta cùng tứ chúng đồng tu theo toa thuốc thần diệu có sẵn của Phật nhé. 

Cám ơn các bạn. Kính chúc các bạn thân tâm thường an lạc.

 

Trần Thị Nhật Hưng

(Khai bút đầu năm 2018)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 98)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 123)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 145)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 136)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 145)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 240)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 199)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 271)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 222)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 226)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 202)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 310)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 254)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 326)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 315)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 417)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 307)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 352)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 460)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 423)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 351)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 621)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 342)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 393)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 406)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 421)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 434)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 423)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 358)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 476)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 814)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 803)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 669)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 974)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 500)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 436)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 543)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 560)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 539)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 534)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 710)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 603)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 756)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 732)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 701)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 696)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 660)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 734)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 709)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant