Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Thánh Ngôn Và Phi Thánh Ngôn

Saturday, October 5, 201905:08(View: 3440)
Thánh Ngôn Và Phi Thánh Ngôn

THÁNH NGÔN VÀ PHI THÁNH NGÔN

TRÍCH TỪ BẢN VIỆT DỊCH A-TÌ-ĐẠT-MA TẬP DỊ MÔN TÚC LUẬN
ABHIDHARMA SANGĪTIPARYĀYA PĀDAŚĀSTRA
阿毘達磨集異門足論

blank
***
Thích Phước Nguyên dịch và chú

Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế ISBN: 978-604-89-6649-2
(Trích từ bản dịch Việt, A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận, đã xuất bản, 1/2019, phát hành tại Sách Hà Nội)


Bốn phi Thánh ngôn (I)

Bốn phi thánh ngôn: 1. Không thấy nói thấy; 2. Không nghe nói nghe; 3. Không cảm nhận nói cảm nhận; 4. Không nhận biết nói nhận biết[1].

i. Thế nào là phi Thánh ngôn: không thấy nói thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không thấy nói thấy.

Có ai thực tế đã thấy, nhưng khởi ấn tượng không thấy, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không thấy nói thấy”, vì thực tế người đó đã thấy.

ii. Thế nào là phi Thánh ngôn: không nghe nói nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không nghe nói nghe.

Có ai thực tế đã nghe, nhưng khởi ấn tượng không nghe, mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nghe nói nghe”, vì thực tế người ấy đã nghe.

iii. Thế nào là phi Thánh ngôn: không cảm nhận nói cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không cảm nhận nói cảm nhận.

Có ai thực tế đã cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng không cảm nhận, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không cảm nhận nói cảm nhận”, vì thực tế người đó đã cảm nhận.

iv. Thế nào là phi Thánh ngôn: không nhận biết nói nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: không nhận biết nói nhận biết.

Có ai thực tế đã nhận biết, nhưng khởi ấn tượng không nhận biết, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nhận biết nói nhận biết”, vì thực tế người đó đã nhận biết.

 Bốn Thánh ngôn (I)

Bốn Thánh ngôn: 1. Không thấy nói không thấy; 2. Không nghe nói không nghe; 3. Không cảm nhận nói không cảm nhận; 4. Không nhận biết nói không nhận biết[2].

i. Thế nào là Thánh ngôn: không thấy nói không thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế gọi là thánh ngôn: không thấy nói không thấy.

Có ai thực tế đã thấy, nhưng khởi ấn tượng không thấy, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không thấy nói không thấy”, vì thực tế người đó đã thấy.

ii. Thế nào là Thánh ngôn: không nghe nói không nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế gọi là thánh ngôn: không nghe nói không nghe.

Có ai thực tế đã nghe, nhưng khởi ấn tượng không nghe, mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nghe nói không nghe”, vì thực tế người ấy đã nghe.

iii. Thế nào là Thánh ngôn: không cảm nhận nói không cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế gọi là thánh ngôn: không cảm nhận nói không cảm nhận.

Có ai thực tế đã cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng không cảm nhận, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không cảm nhận nói không cảm nhận”, vì thực tế người đó đã cảm nhận.

iv. Thế nào là Thánh ngôn: không nhận biết nói không nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức chưa từng tiếp thọ, chưa từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế gọi là thánh ngôn: không nhận biết nói không nhận biết.

Có ai thực tế đã nhận biết, nhưng khởi ấn tượng không nhận biết, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “không nhận biết nói không nhận biết”, vì thực tế người đó đã nhận biết.

Bốn phi Thánh ngôn (II)

Lại có bốn phi Thánh ngôn: 1. thấy nói không thấy; 2. nghe nói không nghe; 3. cảm nhận nói không cảm nhận; 4. nhận biết nói không nhận biết[3].

i. Thế nào là phi Thánh ngôn: thấy nói không thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: thấy nói không thấy.

Có ai thực tế không thấy, nhưng khởi ấn tượng thấy, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “thấy nói không thấy”, vì thực tế người đó không thấy.

ii. Thế nào là phi Thánh ngôn: nghe nói không nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: nghe nói không nghe.

Có ai thực tế không nghe, nhưng khởi ấn tượng nghe, mà ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nghe nói không nghe”, vì thực tế người ấy không nghe.

iii. Thế nào là phi Thánh ngôn: cảm nhận nói không cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: cảm nhận nói không cảm nhận.

Có ai thực tế không cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng đã cảm nhận, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “cảm nhận nói cảm nhận không”, vì thực tế người đó không cảm nhận.

iv. Thế nào là phi Thánh ngôn: nhận biết nói không nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế gọi là phi thánh ngôn: nhận biết nói không nhận biết.

Có ai thực tế không nhận biết, nhưng khởi ấn tượng đã nhận biết, mà ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi không nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi phi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nhận biết nói không nhận biết”, vì thực tế người đó không nhận biết.

Bốn Thánh ngôn (II)

Lại có bốn Thánh ngôn: 1. thấy nói thấy; 2. nghe nói nghe; 3. cảm nhận nói cảm nhận; 4. nhận biết nói nhận biết[4].

i. Thế nào là thánh ngôn: thấy nói thấy?

Nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã thấy. Có ai nếu nhãn thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế gọi là thánh ngôn: thấy nói thấy.

Có ai thực tế không thấy, nhưng khởi ấn tượng đã thấy, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã thấy”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “thấy nói thấy”, vì thực tế người đó không thấy.

ii. Thế nào là Thánh ngôn: nghe nói nghe?

Nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã nghe. Có ai nếu nhĩ thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế gọi là thánh ngôn: nghe nói nghe.

Có ai thực tế không nghe, nhưng khởi ấn tượng đã nghe, mà không ẩn tàng ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nghe”. Như thế trường hợp này tuy gọi là Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nghe nói nghe”, vì thực tế người ấy không nghe.

iii. Thế nào là Thánh ngôn: cảm nhận nói cảm nhận?

Ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã cảm nhận. Có ai nếu ba thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế gọi là thánh ngôn: cảm nhận nói cảm nhận.

Có ai thực tế không cảm nhận, nhưng khởi ấn tượng đã cảm nhận, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã cảm nhận”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “cảm nhận nói cảm nhận”, vì thực tế người đó không cảm nhận.

iv. Thế nào là Thánh ngôn: nhận biết nói nhận biết?

Ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri nên gọi là cái đã biết. Có ai nếu ý thức đã từng tiếp thọ, đã từng thông tri; mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế gọi là thánh ngôn: nhận biết nói nhận biết.

Có ai thực tế không nhận biết, nhưng khởi ấn tượng đã nhận biết, mà không ẩn tàng: ấn tượng như thế, chấp nhận như thế, kiến chấp như thế, xu hướng như thế, rồi phát ngôn: “tôi đã nhận biết”. Như thế trường hợp này tuy gọi Thánh ngôn, nhưng không gọi là: “nhận biết nói nhận biết”, vì thực tế người đó không nhận biết.

Sách đọc thêm: Bản dịch A-tì-đạt-ma Tập dị môn túc luận (Phước Nguyên)
Dẫn nhập Tập dị môn luận



[1] Skt. catvāro ’nāryavyavahārāḥ | adṛṣṭe dṛṣṭavāditānāryavyavahāraḥ | aśrute śrutavāditā | amate matavāditā | avijñāte vijñātavāditānāryavyavahāraḥ; Chúng tập: bất thánh ngữ 不 聖 語: 1. không thấy nói thấy; 2. không nghe nói nghe; 3. không cảm thấy, nói cảm thấy; 4. không biết nói biết. Pāli: Aparepi cattāro anariyavohārā—adiṭṭhe diṭṭhavāditā, assute sutavāditā, amute mutavāditā, aviññāte viññātavāditā. Cf. T 12: bốn phi a-duệ-ra hành 非阿曳囉行.

[2] Skt. catvāra āryavyavahārāḥ | adṛṣṭe ’dṛṣṭavāditāryavyavahāraḥ | aśrute ’śrutavāditā amate ’matavāditā | avijñāte ’vijñātavāditāryavyavahāraḥ; Chúng tập: bốn thánh ngôn: 1. thấy nói thấy; 2. nghe nói nghe; 3. hay nói hay; 4. biết nói biết. Pāli: Aparepi cattāro ariyavohārā—adiṭṭhe adiṭṭhavāditā, assute assutavāditā, amute amutavāditā, aviññāte aviññātavāditā.

[3] Skt. catvāro ’nāryavyavahārāḥ | dṛṣṭe ’dṛṣṭavāditānāryavyavahāraḥ | śrute ’śrutavāditā | mate ’matavāditā | vijñāte ’vijñātavāditānāryavyavahāraḥ; Pāli: Aparepi cattāro anariyavohārā—diṭṭhe adiṭṭhavāditā, sute assutavāditā, mute amutavāditā, viññāte aviññātavāditā.

[4] Skt. catvāra āryavyavahārāḥ | dṛṣṭe dṛṣṭavāditāryavyavahāraḥ | śrute śrutavāditā | mate matavāditā | vijñāte vijñātavāditāryavyavahāraḥ; Pāli: Aparepi cattāro ariyavohārā—diṭṭhe diṭṭhavāditā, sute sutavāditā, mute mutavāditā, viññāte viññātavāditā.
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
)
(View: 8)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(View: 57)
Để giúp người Phật tử có đời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(View: 63)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(View: 49)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(View: 61)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(View: 80)
Chu Lợi Bàn Đặc và Ma Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(View: 83)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(View: 90)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(View: 123)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(View: 147)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(View: 404)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(View: 142)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(View: 224)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(View: 222)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 161)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(View: 272)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(View: 206)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(View: 376)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(View: 282)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(View: 279)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(View: 246)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(View: 360)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(View: 415)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(View: 344)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(View: 298)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(View: 330)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(View: 331)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(View: 362)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(View: 346)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(View: 377)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(View: 380)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(View: 423)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(View: 485)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(View: 462)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(View: 608)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(View: 444)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(View: 427)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(View: 394)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(View: 544)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(View: 473)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(View: 360)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(View: 385)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(View: 365)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(View: 350)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(View: 544)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(View: 342)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(View: 373)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(View: 319)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(View: 491)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(View: 447)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
azipos-point-of-sale-300x300
Thầy THÍCH PHÁP HÒA sẽ có buổi thuyết pháp tại chùa Bảo Quang vào thứ bẩy ngày 22 tháng 4 năm 2023, lúc 2 giờ chiều