Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Cách An Trú Tánh Không Với Tinh Tấn Chánh Niệm Tỉnh Giác

15 Tháng Mười Hai 201908:09(Xem: 5682)
Bốn Cách An Trú Tánh Không Với Tinh Tấn Chánh Niệm Tỉnh Giác
Bốn Cách An Trú Tánh Không Với Tinh Tấn Chánh Niệm Tỉnh Giác
(Trích ghi chép từ Trà Đạo Bửu Long, ngày 04/08/2016)


HT. Viên Minh

Ban cach an tru

HỎI: 1. Trong Thiên Đại Tông Sư của Trang Tử Nam Hoa Kinh có nói: Giải thể, bỏ thông minh, lìa hình, bỏ trí, đồng với Đạo lớn, đó gọi là "tọa vong” (ngồi quên tất cả) có phải như thế nghe có vẻ trái với chánh niệm tỉnh giác?

ĐÁP: - “Tọa Vong” như thế nếu hiểu đúng nghĩa theo đạo Phật thì gọi là "an trú Tánh Không" mà  đức Phật đã dạy. Đây không phải là cái không của 4 thiền vô sắc do tưởng trong định mà trước kia khi chưa hoàn toàn giác ngộ đức Phật cũng đã từng an trú, nhưng sau khi giác ngộ Ngài "an trú Tánh Không" sâu sắc hơn. Vì bây giờ là "an trú Tánh Không" của tự tánh Rỗng Lặng Trong Sángđức Phật gọi là Tâm Chói Sáng (Pabhassara Citta) an nhiên tịch tịnh. Đây là bản chất rỗng lặng trong sáng hoàn toàn tự nhiên của tâm. Khi tâm hoàn toàn buông thư, vô vi, vô ngã thì nó trở về với Tánh KhôngThiền Tông gọi là Vô Tâm hay Vô Sự. Đó cũng là Chánh Định: “Định này tịch tịnh, vi diệu, vắng lặng, nhất tánh, không điều kiện, không đối kháng, không trở ngại”.

Trong Thiền Tông, phái Tào Động có pháp thiền "Tịch Chiếu": Trong ngồi chỉ ngồi thôi chính là đã đầy đủ định tuệ, lúc đó tu chứng là một, chứ không có chỗ tu, không có chỗ chứng, vì thân tâm đã nhất như. Đức Phật dạy trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe, không có bản ngã trong đó… thì ngay đó chính là Đạo, là Quả, là Niết-bàn. Tọa Vong, Tịch Chiếu, an trú Tánh Không, thư giãn buông xả… tuy khác nhau trên ngôn ngữ nhưng trong thực chứng rốt ráo thì vẫn không khác. Đó mới thật là chánh tuệ, chánh định trong Bát Chánh Đạo. Trong Thiền Tông có hạnh tu gọi là "vô công dụng hạnh" (tức vượt ngoài dụng ý, dụng công, hoàn toàn vô vi vô ngã. Nên cũng còn gọi là "Tu vô tu, chứng vô chứng”.

Bên Đạo Thiên Chúa, “Nguyện" là tâm thái hoàn toàn buông bỏ bản ngã để thể nhập với Chúa Trời, hoàn toàn giao phó linh hồn cho Thiên Chúa… thực ra lúc đó cũng là một hình thức “Tọa Vong”, và nếu thực sự vô vi vô ngã thì gọi đó là "an trú Tánh Không”, là "buông thư rỗng lặng" hay "tịch chiếu” gì cũng được, vì khi đã hiểu được nội dung thì ngôn ngữ không còn là ranh giới nữa. Phân biệt này nọ chỉ là muốn khẳng định Tôn giáo mình hay nhất, cao nhất… nhưng chẳng qua cũng chỉ là thói thường phân biệt của bản ngã mà thôi. Xem ra “Tọa Vong” mà nội dụng là "Giải thể, bỏ thông minh, lìa hình, bỏ trí, đồng với Đạo lớn” thì còn cao hơn thiền định của Bà-la-môn vì định này có mục đích hữu vi hữu ngã, là pháp tu tập luyện để tiểu ngã trở thành Đại Ngã, nên vẫn còn trong Tam Giới… Trong khi Lão Tử, Trang Tử hay phái Tào Động nếu hành đúng thì cũng là vô vi vô ngã.

____________________

 

HỎI: 2. Con thấy một trường phái thiền của Bà-la-môn cũng ngồi hoàn toàn buông xả bản ngã để hoà nhập vào sự an lạc của Đấng Phạm Thiên, tức Thượng Đế, thì đâu khác Toạ Vong hay An trú Tánh Không?

ĐÁP - Ở đây, đang nói về mặt giống nhau và ưu điểm trong “Tọa Vong” của Trang Tử, "Huyền Đồng" của Lão Tử, “Tịch Chiếu” của Tào Động hay “Nguyện” của Đạo Thiên Chúa so với "an trú Tánh Không" mà Đức Phật đã dạy thôi.

Còn về mặt khác nhau, rất dễ bị nhầm lẫn. Nếu một người cứ “Tọa Vong” hay “Tịch Chiếu" chỉ để hưởng thụ sự tĩnh lặng hoàn toàn cũng bị rơi vào "trầm không trệ tịch" trở thành tham đắm trong trạng thái tĩnh lặng, lúc nào cũng tranh thủ ngồi Thiền để hưởng sự an lạc của Thượng Đế hay của đấng Phạm Thiên nên tuy bỏ tiểu ngã nhưng thực ra là đồng hoá với cái Ngã vĩ đại hơn. Như vậy trong vi tế vẫn còn chỗ bám trụ. Trong khi "an trú Tánh Không" hoàn toàn khác, ở đó Ngã, Pháp đều không, như Lục Tổ nói “Bản lai vô nhất vật” vậy. Trong Vi Tiếu thầy có viết câu chuyện "Đấng Phạm Thiên Bất Động” như thế này:

“Thiên Sứ xuống trần thấy một đạo sĩ Yoga đang tuyệt thực, ngồi ngay ngắn trong một tịnh thất kín đáo yên tĩnh, thân tâm bất động.

Thiên Sứ hỏi:

- Đạo sĩ ngồi như vậy để làm gì?

- Để thể nhập đấng Phạm Thiên.

Thiên Sứ ngơ ngác nhủ thầm:

Thượng đế ban cho con người mọi hoạt động như đi, đứng, ngồi, nằm, uống, ăn, đưa tay lên, để tay xuống, chân co lại, duỗi ra, mắt nhìn lui nhìn tới… mọi thứ đều uyển chuyển tự nhiên, biến hoá vô cùng để giúp con người học ra mọi tình huống của đời sống mà qua đó họ đều thể nhập được với Thượng đế, sao đạo sĩ này cứ ngồi một chỗ mà nói để thể nhập Thượng đế nhỉ? Thượng đế (Pháp Tánh) thì ở khắp mọi nơi, còn Tâm thì vốn rỗng lặng trong sáng, như vậy “khi xúc chạm việc đời, tâm không động không sầu, tự tại và vô nhiễm" mới là thể nhập Pháp Tánh chứ đâu phải ngồi yên bất động để mong cầu thể nhập Pháp Tánh? Suy nghĩ mãi, Thiên sứ mới chợt hiểu ra rằng đạo sĩ này muốn Thượng đế nhập ông ta chứ không phải ông thể nhập Thượng đế. Nghĩa là đạo sĩ muốn Thượng Đế cũng phải theo ý của mình mới được!”

Mong muốn luôn sống trong an lạc chính là chủ trương luận thuyết "hiện tại lạc”, một trong 62 tà kiếnđức Phật đã đề cập trong Kinh Phạm Võng. Trong khi "An trú Tánh Không" là tâm rỗng lặng trong sáng trong đi đứng ngồi nằm, trong mọi hoạt động tự nhiên, vô tâm, nên tuy có mà không, cái không rỗng lặng mọi ý đồ của bản ngã, thì ngược lại “thể nhập an lạc” của đấng Phạm Thiên vẫn thì vẫn còn chỗ để bám trụ dù đó là chỗ bám cao siêu nhất. Vậy ở đây, không nên đánh đồng các nguồn thiền khác nhau mà cần thấy ra những điểm đồng nhất và dị biệt… Thực ra khi nói đến thiền định Bà-la-môn là thầy muốn ám chỉ cách tu tập với mục đính tiểu ngã trở thành đại ngã thôi chứ thực tế vẫn có không ít Bà-la-môn tu tập đúng hướng hơn những người tu theo Phật nhưng không đúng hướng.

Người sống theo Phật pháp phải nắm thật vững nguyên lý giác ngộ giải thoát mới không bị nhầm lẫn hay tha hoá… Trong Thiền Đông Độ, “Tịch Chiếu" của Tào động đôi khi cũng bị lên án vì phần lớn người thực hành đặt nặng “Tịch” hơn “Chiếu” nên sinh ra trì trệ. Ngài Huệ Năng đã tiên đoán trước và nói rằng “trụ tâm quán tịnh” là bệnh chứ không phải Thiền. Nếu ngồi buông thư tự nhiên để tâm rỗng lặng trong sáng hoà nhập vào sự tịch tịnh của Pháp Chân Đế thì không sai. Nhưng nếu muốn ngồi trụ tâm để được lạc được tịnh thì tất nhiên không đúng.

____________________

 

HỎI: 3. Phật dạy Ngài Xá Lợi Phất về an trú tánh Không trong tứ oai nghi, có phải là chánh niệm tỉnh giác trong tứ oai nghi?

ĐÁP: - Thực ra không phải chỉ chánh niệm tỉnh giác trong 4 oai nghi mà là chánh niệm tỉnh giác trong tất cả các oai nghi, tất cả mọi hoạt động. Trong tất cả mọi hoạt động mà tâm vẫn rỗng lặng trong sángan trú Tánh Không.

Có 4 cách an trú Tánh Không với tinh tấn chánh niệm tỉnh giác:

1. Thận trọng chú tâm quan sátan trú Tánh Không trong 4 oai nghi và trong mọi hoạt động.

2. Trở về trọn vẹn tỉnh thức với thực tạian trú Tánh Không trong lúc nghỉ ngơi vô sự.

3. Trong lành định tĩnh sáng suốtan trú Tánh Không khi mở tâm ra với vạn pháp.

4. Rỗng rang lặng lẽ trong sángan trú Tánh Không khi hoàn toàn thư giãn buông xả.

Như vậy, có thể an trú Tánh Không ở trong tất cả mọi hoạt động, trong các oai nghi đi đứng ngồi nằm chứ không phải chỉ ngồi mà thôi.

Trong nhiều tình huống khác nhau nhưng mỗi khi bắt gặp tâm rỗng lặng trong sáng thì đều giống nhau. Thậm chí có lúc trong chiêm bao gặp một tình huống cực kỳ nguy hiểm bỗng nhiên cũng rơi vào tâm hoàn toàn rỗng lặng trong sáng. Thực ra, trong đời sống bình thường, tâm rỗng lặng trong sángđức Phật gọi là Pabhassara Citta này, vẫn luôn soi sáng tự nhiên, nhưng do lý trí vọng thức che lấp nên không thấy ra thôi. Bấy giờ mọi lúc mọi nơi dù đi đứng ngồi nằm ngồi hay mọi hoạt động tâm đều có thể rỗng lặng trong sáng được. Người ta thường không biết rằng đức Phật dạy chỉ cần “an trú chánh niệm trước mặt” trong các oai nghi, trong các sinh hoạt hàng ngày để loại khỏi tâm mọi lậu hoặc (tức mọi ý đồ của bản ngã) là người làm chói sáng khu rừng Gosinga chứ không phải đạt được các sở đắc cao siêu như đa văn, thiền định, thần thông... (Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò). Nếu một người có tâm trong lành, định tĩnh, sáng suốt thì mọi hoạt động đều thanh tịnh trong sáng chứ không cần phải nỗ lực để mong cầu đạt được sở đắc. Chẳng hạn câu chuyện Ngài Anan khi cố gắng hành thiền để mau đắc quả A-la-hán hầu được tham dự kết tập Tam Tạng thì chỉ bị căng thẳng thôi nên không thể nào đắc được, nhưng khi buông xuống mọi ý đồ để nằm nghỉ ngơi thì ngay đó tâm liền rỗng lặng trong sáng và hoát nhiên đắc Đạo Quả A-la-hán.

(Trích ghi chép từ Trà Đạo Bửu Long, ngày 04/08/2016)
HT. Viên Minh
Nguồn: trungtamhotong.org
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 100)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 131)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 138)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 148)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 182)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 228)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 217)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 230)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 222)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 259)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 246)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 209)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 156)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 185)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 208)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 293)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 303)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 385)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 358)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 339)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 349)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 607)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 573)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 849)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 444)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 678)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 497)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 484)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 385)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 503)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 465)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 651)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 448)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 851)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 573)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 968)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 680)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 573)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 873)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 545)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 624)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 534)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 708)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1019)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1198)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant