Xét theo thời gian, nghiệp có cũ và mới. Nghiệp cũ được gây tạo trong quá khứ xa hoặc gần, có tính thụ động. Nghiệp mới được tạo ra ngay trong hiện tại, có tính chủ động. Tu căn hay điều phục, phòng hộ sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là chủ động tạo ra nghiệp mới thiện lành.
“Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
- Đối với sáu căn này mà không điều phục, không đóng kín, không thủ hộ, không chấp trì, không tu tập, thì đời vị lai sẽ chịu quả báo khổ.
- Sáu căn là những gì? Nhãn căn không điều phục, không đóng kín, không thủ hộ, không chấp trì, không tu tập, thì ở đời vị lai sẽ chịu báo khổ. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy.
- Phàm phungu si không học, khi mắt thấy sắc, chấp thủ tướng chung, chấp thủ tướng riêng; bất kể nhãn căn hướng đến nơi nào, đều an trụ với bất luật nghi được chấp thọ; các ác pháp, bất thiện, tham ái của thế gian lọt vào tâm, những điều như thế đều do không thể chấp trìluật nghi, phòng hộ nhãn. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Như thế đối với sáu căn, không điều phục, không đóng kín, không giữ gìn, không chấp trì, không tu tập thì ở đời vị lai sẽ chịu quả báo khổ.
- Thế nào là sáu căn khéo điều phục, khéo đóng kín, khéo giữ gìn, khéo chấp trì, khéo tu tập thì ở đời vị lai sẽ được an vui? Đa văn Thánh đệ tử khi mắt thấy sắc khôngchấp thủ tướng chung, không chấpthủ tướng riêng; bất kể nhãn căn hướng đến nơi nào, vẫn thường an trú với luật nghi. Những pháp ác, bất thiện, tham ái ở thế gian không lọt vào tâm, có thể sanh ra các luật nghi, khéo thủ hộnhãn căn. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý lại cũng như vậy. Đó gọi là sáu căn khéo điều phục, khéo đóng kín, khéo giữ gìn, khéo chấp trì, khéo tu tập, thì ở đời vị lai sẽ được an vui.
Đức Phật liền nói bài kệ:
Nơi sáu xúc nhập xứ Trú vào không luật nghi Những Tỳ-kheo như vậy Mãi mãi chịu khổ lớn. Đối với các luật nghi Luôn tinh cầntu tập Chánh tín, tâm không hai Các lậu chẳng vào tâm. Mắt thấy những sắc kia Vừa ý, không vừa ý Vừa ý, không sanh muốn Không vừa ý, chẳng ghét. Tai nghe những âm thanh Có niệm và không niệm Đối niệm, không ưa đắm Không niệm, không khởi ác. Mũi ngửi đến các mùi Hoặc thơm, hoặc là hôi Đối thơm, hôi, bình đẳng Không muốn, cũng không trái. Đối các vị để ăn Chúng cũng có ngon, dở Vị ngon không khởi tham Vị dở không kén chọn. Thân xúc tạo vui sướng, Mà chẳng sanh buông lung Xúc chạm bị khổ đau Không sanh tưởng oán ghét. Khổ vui đều buông hết Chưa diệt khiến cho diệt Phải quán sát tâm ý Các tướng, các tướng kia. Giả dối mà phân biệt Dục tham càng rộng lớn Giác ngộ các ác kia An trú tâm lìa dục. Khéo nhiếp sáu căn này Sáu cảnh xúc không động Dẹp sạch các ma oán
Vượt qua bờ sống chết.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 279)
Đức Phật dạy thật rõ ràng. Các giác quan mở ra thì đồng thời hai cánh cửa đau khổ và an vui cũng được mở ra. Tùy khả năng phòng hộ và giác tỉnh nơi mỗi người mà nhận lãnh đau khổ hoặc an vui. Nếu có chánh niệm, cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe…, an trúluật nghi, không khởi tham ái thì ác pháp và bất thiệnpháp không có cơ hội sinh khởi. Ngược lại thì ác pháp và bất thiện pháp đoanh vây, khổ đau có mặt.
Điều phục các căn không có nghĩa là nhắm mắt, bịt tai mà tỉnh giác khi căn tiếp xúc với trần cảnh. Nhờ thấy rõ đặc tínhduyên sinhgiả hợp của vạn pháp nên hàng ngày vẫn sống và tiếp xúc với tất cả nhưng tâm không động, ý không đắm nhiễm, luôn tạo ra nghiệp mới thiện lành. Đó là tu căn.
Sau khi Đức BổnSư Thích Ca Mâu Nithành tựuChánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinhVô Ngôn. Cốt lõi của bài kinh là lòng biết ơn.
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền nãobuồn ngủ
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩađộc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểmhạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệm và cảm thọgiác quan trong cuộc sống
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.