Từ Nạn Dịch Covid-19 Nhìn Lại Sự Sai Khác Trong Cách Đối Diện
Với Bệnh Tật Giữa Thánh Nhân Và Phàm Phu
Minh Tuệ Hồ Văn Tiến
Đứng trước tật bệnh, bậc thánh thì chánh niệm tỉnh giác xem chúng chỉ thuần là thân bệnh như những gì nó đang diễn ra, còn người phàm tự mình nhào nặn và gia tăng thân bệnh ấy với cường độ cao hơn, tức tâm bệnh!
Cuộc sống mà không bệnh hoạn với ốm đau thì ai mà chẳng hy cầu, ước được. Nhưng đó chỉ là những ảo kiến viễn vông, mà con người không bao giờ thành tựu. Vì khi sự hiện hữu của con người phải và luôn gắn liền với thân mạng, đồng nghĩa với việc hữu thể ấy tồn tại bất phân ly với bệnh tật, do vậy Đức Phật dạy: “Phàm có thân thể là bị bệnh thúc ép. Đáng bệnh, chúng sanh bị bệnh vây khốn”[1], điều này về sau được Trần Thái Tông tái khẳng định trong Khóa Hư Lục: “Đại để có thân thì có bệnh; ví bằng không bệnh cũng không thân”[2]. Mối liên hữu giữa thân và bệnh là một logic tất yếu, không thể khước từ được, nếu có sự khước từ này thì kẻ ấy là người vô trí: “Ai mang cái thân này, này Gia chủ, lại tự cho là không bịnh, dầu chỉ trong một giây phút; người ấy phải là người ngu”[3]. Tuy nhiên trong kho tàng kinh điển, tồn tại trường hợp ngoại lệ, đó là tôn giả Bakkula. Trong suốt 160 năm hiện hữu, với phân nữa quãng đời sống theo hạnh xuất gia, tôn giả không biết đến bệnh là gì, điều đó được biết qua lời tự thuật “Tôi không bao giờ nhận thấy có bệnh khởi lên, dầu cho một chốc lát”[4] và được Đức Phật liệt vào vị đệ tử tối thắng của Ngài về sự kiện không có bệnh hoạn: “Trong các vị đệ tử…không có bệnh hoạn, này các Tỷ-kheo, tối thắng là Bakkula”[5]. Nhưng khác với người ngu ở chỗ, tôn giả Bakkula không hề vênh váo tự đắc về sự vô bệnh của mình. Tất nhiên đây chỉ mới luận bàn về thân bệnh, mà chúng ta có thể thấy với hơn 40 chục loại bệnh của thân được Đức Phật liệt kê cho Ananda, từ ho hen, ghẻ lở, cho đến trĩ, đái đường, ung nhọt… [6] Và bệnh là nghiệp quả của việc hay não hại các loài hữu tình, với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, hay với cây đao. [7]
Căn cứ mẫu đối thoại giữa tôn giả Xá-lợi-phất với gia chủ Nakulapità (Hán dịch là gia chủ Na-câu-la) trong Kinh Tương Ưng Bộ và bài kinh song hành của nó trong Hán tạng thuộc Kinh Tạp A-hàm (Kinh 109. Trưởng Giả). Đọc kỹ chúng ta mới gián tiếp thấy rằng nội hàm của bệnh không chỉ đơn thuần là sự bất hòa của tứ đại hay sắc, sinh ra 404 thứ bệnh như thường thấy [8], mà nó còn bao hàm cả sự biến hoại hay đổi khác của thọ, tưởng, hành và thức. Sự chuyển dịch ấy được gọi là thân bệnh và ai cũng mắc phải. Nhưng sự khác nhau giữa bậc thánh và người phàm là phản ứng trước sự biến đổi, chuyển dịch của ngũ uẩn. Hàng phàm phu do còn sống trong vọng kiến, vô minh, cho rằng năm uẩn này “là ta, là của ta”, do vậy song song với diễn trình biến dị của chúng, họ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu não, tức tâm bệnh. Trái lại đối với bậc thánh, do không có chấp thủ năm uẩn “là ta, là của ta” nên khi chúng chịu sự chí phối của vô thường biến hoại, thì tâm của các bậc thánh vẫn bất động, không phát sinh tâm bệnh sầu, bi, khổ, ưu não như hàng phàm phu [9]. Chính vì vậy mà ngay từ bài kinh Đức Phật thuyết giáo đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) thì Thế Tôn đã khéo léo chỉ rõ, bệnh là một trong những biểu hiện của khổ, nhưng bệnh khổ này phải đi đôi với cơ cấu “năm thủ uẩn”: “Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ” [10]. Nếu sự thật không phải như vậy thì dù các bậc thánh giả chứng đắc Hữu Dư Y Niết Bàn (S: Sopadhiśeṣa-nirvāṇa, P: Saupādisesa-nibbāna, C: 有余依涅槃) thì vẫn không thoát được khổ, vì họ còn tồn tại thân xác 5 uẩn vậy và điều này không thể xảy ra.
Tương tự, trong bài kinh Với Mũi Tên thuộc Tương Ưng Thọ của Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật đã chỉ ra sự sai khác, thù thắng của hạng đa văn thánh đệ tử so với hạng vô văn phàm phu trong việc cảm nghiệm các loại cảm thọ, tiêu biểu là khổ thọ. Phàm phu do chưa thoát khỏi sự trói buộc cơ cấu tham dục của tự ngã, nên khi một khổ thọ về thân sinh khởi, đi liền với đó là một khổ thọ về tâm, tức sân hận với khổ thọ về thân ấy, từ đó xảy ra thực trạng sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh, hệt như việc trúng 2 mũi tên tại một vị trí bị thương: “Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bị người ta bắn với mũi tên, rồi họ bắn người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy cảm giác cảm thọ cả hai mũi tên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu khi cảm xúc khổ thọ; thời sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Người ấy cảm giác hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm. Cảm xúc bởi khổ thọ ấy, người ấy cảm thấy sân hận (patigha). Do cảm thấy sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ được tồn chỉ tùy miên (anuseti)” [11]. Trái lại với hàng thánh đệ tử sau khi đã quán chiếu như thật và biết rõ rằng bản chất của các cảm thọ là vô thường, vô ngã, do duyên sanh: “Có ba thọ này, này các Tỳ-kheo, vô thường, hữu vi, do duyên sanh, chịu sự đoạn tận, chiệu sự tiêu vong, chịu sự ly tham, chịu sự đoạn diệt. Thế nào là ba? Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ” [12]. Cho nên khi một khổ thọ khởi lên nơi thân, thì hàng thánh đệ tử luôn chánh niệm tỉnh giác, không khởi lên sân tâm với khổ thọ về thân đó, dụ như một người chỉ trúng 1 mũi tên duy nhất: “Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bị người ta bắn một mũi tên. Họ không bắn tiếp người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, này các Tỷ-kheo, người ấy cảm giác cảm thọ của một mũi tên. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử khi cảm xúc khổ thọ; vị ấy không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác chỉ một cảm thọ, cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm. Vị ấy không cảm thấy sân hận đối với khổ thọ ấy. Do không cảm thấy sân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ không có tồn tại” [13].
Điều đó lý giải tại sao, trong những cơn bạo bệnh, đức Phật vẫn chánh niệm tỉnh giác, an nhiên tự tại, không hề than vãn hay có sự hiện khởi của sân tâm. Cuộc đời Đức Phật trãi qua ít nhất 3 lần bạo bệnh. Trong 2 lần đầu một lần trong mua an cư tại Vesālī tại làng Beluva: “Trong khi Thế Tôn an cư mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, những cảm thọ khốc liệt gần như chết tiếp diễn. Ở đây, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, không có than vãn” [14] và lần khác khi Đức Phật ở thành Vương-xá, Ngài lâm trọng bệnh, nhưng sau khi nghe tôn giả Maha Cunda trùng tụng thất giác chi thì bệnh tình của Thế Tôn được đoạn diệt [15]. Lần Bệnh cuối cùng, có thể nói là trầm trọng nhất, Thế Tôn cảm thọ gần như đến chết, đi ngoài ra máu sau khi thọ dụng buổi cơm hiến cúng của người thợ rèn Cunda: “Sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn bệnh” [16]. Do bữa cơm đó có món Sùkara-maddave (Mộc nhĩ) [17] cực độc, theo như Đức Phật cho hay thì ngoài Đức Phật ra, Ngài không thấy một ai ở cõi trời, cõi người, ở ma giới, ở phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và chúng Bà-la-môn ăn món mộc nhĩ này mà có thể tiêu hóa được. Do vậy phần còn lại của món mộc nhĩ này đã được Cunda chôn cất theo như sự chỉ dẫn của Đức Phật. Không lâu sau đó Thế Tôn đã nhập diệt, tất nhiên không phải Cunda là thủ phạm khiến Ngài thị tịch, mà đó là hành động đã được điểm chỉ từ trước và Thế Tôn đã từ bỏ thọ hành trước đó tại đền thờ Capala [18].
Như vậy, Đức phật đã phân chia bệnh thành 2 phạm trù căn bản: Thân bệnh và tâm bệnh. Và Ngài nói rằng, chúng ta có thể tiềm dễ bắt gặp người nào đấy tự nhận mình thân không bệnh một năm cho đến 100 năm, nhưng rất khó tìm được trong số những vị ấy, người không bị tâm bệnh dù trong một khoảnh khắc, trừ những vị đã đoạn tận các lậu hoặc [19]. Từ giác độ như những gì vừa nêu, chúng ta có thể thấy rằng bậc thánh (Đức Phật và hàng đa văn thánh đệ tử của Ngài) với chất liệu giác ngộ và giải thoát đã hiện chứng, trong tiến trình hiện hữu này, thánh nhân chỉ có thân bệnh mà không còn tâm bệnh như hàng phàm phu. Hay nói cách khác thánh nhân chỉ có “bệnh”, chứ không có “bệnh khổ”. Qua đó chúng ta thấy được sự đối lập trong cách đối diện trước bệnh tật giữa thánh và phàm, một bên là an nhiên tiếp nhận, bên kia thì buông lời nguyền rủa với sự hiện khởi của sân tâm. Đó là ý nghĩa đích thực mà câu Kinh Pháp Cú 198 muốn truyền đạt:
“Vui thay chúng ta sống
Không bệnh giữa ốm đau
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống không ốm đau” [20]
Hơn thế nữa, thông qua cách mà Đức Phật đối diện với những cơn bạo bệnh, chúng ta cũng có thể hiểu được phần nào và lý do tại sao mà Ngài được xưng tụng là bậc Đại Y Vương, điều này được chính Ngài xác tín trong Kinh Tạp A-hàm như sau: “Này các Tỳ-kheo, các lương y thế gian không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc sanh, không biết như thật cách đối trị đối với cội gốc lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác là vị Đại Y vương, biết như thật cách đối trị đối với cội gốc sanh, lão, tử, ưu, bi, khổ, não. Vì thế nên Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác được gọi là Đại Y vương.” [21]
Với những kiến giải trên, thiết nghĩ chúng ta sẽ học hỏi được nhiều điều hữu ích trong bối cảnh nạn dịch Covid-19 đang lây lan với tốc độ kinh hoàng như hiện nay. Thay vì hoảng loạn cùng với những hành động thiếu ý thức, kém văn minh trước dịch bệnh, chúng ta phải thật bình tĩnh để nhận ra bản chất của sự hiện diện con người không bao giờ vắng bóng bệnh tật, bệnh dịch. Điều đó đã được lịch sử minh chứng từ cổ chí kim với những thế hệ con người đã nằm xuống vì bệnh tật, cũng như các trận dịch bệnh đã cướp đi nhân mạng của vô số người. Hoảng hốt trước dịch bệnh chẳng khác gì chúng ta tiếp thêm sức mạnh cho virus lây lan. Ngược lại bình tĩnh chấp nhận cũng như có cách ứng xử thông minh, thì con người đã cầm trong tay liều vaccine tinh thần cực mạnh, có thể lướt qua bất kỳ loại virus nào. Đằng khác, lắm lúc chúng ta cũng nên nói lên lời cảm ơn đối với sự tung hoành của virus corona, vì nhờ chúng mà ta nhận diện sâu sắc rằng cuộc sống này rất mong manh, bất toàn. Với vai trò đó nó xứng đáng được xem là một trong ba thiên sứ (Già, bệnh và chết) của Vua Diêm Ma [22] sai bảo để thức tỉnh những con người đang chìm trong lối sống tham dục, ích kỷ, vun bồi cho tự ngã. Hy vọng với biến cố dịch bệnh này, con người sẽ biết cách sửa đổi nhận thức cũng như hành vi của mình, để sống tốt hơn, có đạo đức hơn, biết ban tặng niềm vui và san sẻ nỗi khổ với người khác trong cơn hoạn nạn, dẫu biết trước ngày mai là tận thế!
Cước chú:
[1] Thích Đức Thắng dịch – Tuệ Sỹ hiệu đính và chú thích, Kinh Tăng Nhất A-Hàm: https://suttacentral.net/ea26.6/vi/tue_sy-thang
[2] Thích Thanh Từ, Khóa Hư Lục Giảng Giải: http://www.thientongvietnam.net/kinhsach-thike/dirs/khoahuluc/unicode/p4.html
[3] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 633-634.
[4] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trung Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 457.
[5] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 60.
[6] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 608.
[7] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trung Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 540-541.
[8] Xem Thích Quảng Độ dịch (2000), Phật Quang Đại Từ Điển, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản, tr. 583.
[9] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 633-637/ Thích Đức Thắng dịch – Tuệ Sỹ hiệu đính và chú thích (2019), Kinh Tạp A-Hàm, Nxb, Hồng Đức, tr. 237-241.
[10] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 783.
[11] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 279.
[12] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 284.
[13] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 279.
[14] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tương Ưng Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 566.
[15] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, II, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 504-505.
[16] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trường Bộ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 319.
[17] Có vài ý kiến tranh luận cho rằng món Sùkara-maddave là một loại thịt heo mềm.
[18] Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Trường Bộ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 303.
[19] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 489.
[20] Thích Minh Châu dịch (2012), Kinh Pháp Cú, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, tr. 91.
[21] Thích Đức Thắng dịch – Tuệ Sỹ hiệu đính và chú thích (2019), Kinh Tạp A-Hàm, Nxb, Hồng Đức, tr. 682.
[22] Xem Thích Minh Châu dịch (2015), Kinh Tăng Chi Bộ, I, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 170-171.
- Tag :
- Minh Tuệ Hồ Văn Tiến