![]() |
![]() |
PHẦN MỘT
GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ
2
Sự
Giải Thoát Tự Nhiên Của Bản-Tâm:
Bốn
Thời Yoga Của Hoạt Động Tâm Linh
Của
Kim Cương Thừa Mantra Bí Mật
GIÁO LÝ TRƯỚC BÀN LUẬN về những chuẩn bị chung, và bây giờ chúng ta đi đến những chuẩn bị khác thường hay phi thường.
Trong Sự Giải thoát Tự nhiên qua Thiền định về Hiền minh và Phẫn nộ, hãy thực hành kỹ lưỡng phù hợp với những thực hành chuẩn bị này để rèn luyện dòng tâm thức chính bạn.
Thực hành sau đây được viết trong dạng bài kệ có âm tiết hay, thường được tụng niệm trong các tu viện ở Tây Tạng. Khi tôi còn là một đứa trẻ, vào buổi sáng sớm các tu sĩ thường tụng niệm bài này. Đó là một cách để ngăn chận người ta ngủ quá giờ, và họ có một cách tụng niệm đặc biệt rất du dương.
Than
ôi! Khốn khổ thân tôi! Ôi đứa con của dòng giống tốt!
[11]
Không
chống
nổi vô minh và ảo tưởng,
Hãy
phát
sinh năng lực nhiệt tình và thức dậy ngay.
Từ
thời
vô thủy cho đến nay
Vẫn
còn
ngủ say vì vô minh,
Nhưng
giờ
đây đừng ngủ nữa; hãy để thân, khẩu, ý chuyên tâm
vào Giáo Pháp.
Nếu
có
lợi ích thật sự trong lối sống ngủ mê mệt, chúng ta
đã hoàn toàn có lợi ích vào lúc này vì đã có nhiều kinh
nghiệm làm việc này từ thời vô thủy. Vậy ngủ thêm là
không cần thiết và có hại. Bây giờ là lúc dẹp chuyện
ngủ sang một bên và chuyên tâm vào Giáo Pháp. Tại sao lại
không ngủ dậy trễ, lang thang, và sống không chủ định?
Vì từ thời vô thủy chúng ta đã không chống nổi tính khờ
dại như vậy, và kết quả là phát triển khuôn mẫu cư xử
che đậy lỗi lầm của chúng ta và chỉ ra những khuyết điểm
của người khác. Thậm chí đôi khi chúng ta thấy lỗi người
khác mà thật ra hoàn toàn chẳng có lỗi nào. Trong cách này
chúng ta vẫn là chủ thể chịu đau khổ của sinh, già, bệnh,
và chết.
Bạn
có nhận biết sự đau khổ của sinh, già, bệnh, và chết
hay không?
Ngày
nay
chẳng có hoàn cảnh nào là cố định.
Đã
đến
lúc phát sinh nhiệt tình để thực hành,
Giờ
đây,
sự cô độc là cơ hội thành tựu cực lạc vĩnh cửu;
Không
có
thời gian để sống với thái độ mệt mỏi.
“Thái độ mệt mỏi” này là một sự trì hỗn, nghĩ rằng, Ồ, ngày nay tôi chưa thể thực hành Giáo Pháp, nhưng sau này khi hoàn cảnh có lợi hơn tôi sẽ thật sự chuyên tâm vào Pháp. Ngày nay, tôi bị nhiều quan tâm thúc ép.” Bây giờ không có thời gian để trì hỗn; đúng ra là tập trung vào cốt tủy của thực hành, nhất là nhấn mạnh vào Bốn Tư duy làm Chuyển Tâm.
Hãy
suy nghĩ về cái chết, và đem sự thực hành đến cực điểm.
Và
những
hoàn cảnh dẫn đến cái chết thì vượt khỏi sự
tưởng tượng, nên không có thời gian để lãng phí trong cuộc
đời.
Vậy
nếu
bạn không đạt được tự tin vô úy,
Thì
mục
đích của cuộc sống bạn là gì?
Trong vô số hoàn cảnh dẫn đến cái chết, cuộc sống chúng ta giống như một ngọn lửa bập bùng trong cơn gió, có thể bị thổi tắt bất cứ lúc nào. Nhất là không có thời gian xoay quanh thói quen kiếm lỗi người khác và che đậy lỗi mình. Trước tiên, mục đích của Giáo Pháp là để chạm trán với nỗi sợ hãi về cái chết và sau đó vượt qua nỗi sợ đó. Và nhờ vậy người ta tìm thấy kết quả của Giáo Pháp. Nếu không tiến tới hướng đó, vậy mục đích của cuộc sống của chúng ta là gì? Điều gì làm cuộc sống con người của chúng ta có ý nghĩa? Chúng ta có thể là thú vật. Sự khác biệt là gì? Nếu chúng ta không đạt được tự tin qua việc chuyên tâm về Giáo Pháp thì chẳng thể đạt lợi ích cho chính mình, đơn giản vì quên quan tâm đến người khác.
Hiện
tượng thì chẳng đồng nhất, nó rỗng không và thoát khỏi
sự tạo tác dựa trên khái niệm.
Giống
như
một ảo giác, ảo tưởng, một giấc mộng, một sự phản
chiếu,
Một
thành
phố của gandharva (càn thát bà), và một tiếng dội.
Biết
được
rằng hiện tượng của luân hồi sinh tử và giải
thoát
Sự
nhận
biết đối tượng giống như mười ảo ảnh tương tự,
gồm
Mặt
trăng
trong nước, bong bóng xà phòng, một ảo giác của mắt,
và một ảo tưởng không thực.
Chống lại sự bám chấp bẩm sinh của bạn vào sự hiện hữu thực sự của chính bạn và hiện tượng khác như thể mọi sự đều có sự đồng nhất nội tại. Mọi hiện tượng của samsara và nirvana, bao gồm chính chúng ta đều giống như mười tương tự này.
Vì
bản tánh của hiện tượng là chẳng sinh,
Nên
chẳng
diệt và không cần bảo tồn, không đến và đi.
Chẳng
có
mục tiêu và không biểu hiện, chúng không thể nhận thức
và không thể diễn tả.
Đã
đến
lúc để tìm hiểu thực tại này.
Không
có
cách để bám chấp hoàn toàn vào bất cứ hiện tượng
nào về mặt ba thời – quá khứ, hiện tại, và tương lai
– hay trong bất kì cách nào khác bằng phương tiện của ngôn
từ hoặc tư tưởng.
Namo
gurubhyah! Namo devebhyah! Namo dakinibhyah!
Than
ôi!
Than ôi! Hiện tượng vô thường của chu trình sinh tử
Là
một
đại dương nghiệp sâu thẳm không thể trốn tránh.
Đáng
thương
cho mọi chúng sanh bị phiền não bởi nghiệp!
Xin
ban
phước cho chúng con để đại dương đau khổ đó có thể
khô cạn!
Nếu nhìn vào hoàn cảnh mình trong chu trình sinh tử này, chúng ta có thể tự hỏi, “Tại sao ta lại đau khổ? Đại dương nghiệp sâu thẳm này là gì mà không thể trốn thoát?” Lý do không thể trốn thoát này là chúng ta tự tạo cho chính mình. Do tham gia những hành động bất thiện và chấp ngã như điều gì đó rất quý báu, chúng ta đem lại sự hổ thẹn trên chính mình. Karma đơn giản có nghĩa là hành động, mà đặc biệt là hành động được thấm đẫm bằng một ý thức dối gạt của bản ngã, của đối tượng hành động, v.v... Khi đau khổ, chúng ta cần biết rằng nền tảng của việc đem đau khổ cho chính mình là qua những hành động trong đời này hay đời trước. Cuối cùng, chẳng nên chỉ tay vào lỗi người khác và trách cứ họ về những đau khổ mà chúng ta kinh nghiệm.
“Đại dương đau khổ” đặc biệt nói đến biển tâm thức phiền não của chính chúng ta, nên việc cầu nguyện biển khổ này có thể khô cạn ám chỉ việc tiêu diệt biển tâm thức phiền não của chính mình. Phương cách làm khô cạn biển này là qua sự thực hành như lắng nghe, suy nghĩ, và thiền định (văn, tư, tu).
Vào lúc Mao Tse Tung chết (Mao Trạch Đông), Đức Dalai Lama nói về cái chết của ông ta trước đông đảo dân Tây Tạng, và Ngài làm một nghi lễ tôn giáo to lớn đại diện cho Mao. Ngài nói rằng, giờ đây Mao đã từ bỏ cõi đời, ông ta nên được suy nghĩ với lòng bi. Trong thực tế khi Ngài nói về cái chết của Mao, mắt Ngài rơi lệ vì lòng bi to lớn cho người này. Ngài yêu cầu dân Tây Tạng hồi hướng những công đức của thực hành họ cho lợi ích của Mao. Mao đã làm gì xứng đáng để được sự ân cần và lòng bi từ Đức Dalai Lama? Những gì ông ta đã làm là tiêu hủy tu viện, tranh tượng, kinh điển ở Tây Tạng một cách có hệ thống. Ông ta đã làm tối đa việc hủy diệt mọi biểu tượng của Đức Phật và Giáo Pháp ở Tây Tạng. Về phần nhân dân Tây Tạng, Mao đã phạm tội diệt chủng và cơ bản bắt dân Tây Tạng phải chịu đau khổ khủng khiếp theo chính sách của ông ta. Không chỉ dân Tây Tạng chịu đau khổ mà dân Trung Quốc cũng phải chịu. Thực chất những đau khổ khủng khiếp này có thể truy nguyên đến Mao và chế độ của ông ta. Khi nghe về một người hay chính quyền bắt phải chịu đau khổ to lớn như vậy phản ứng tự nhiên của chúng ta là giận dữ; trái lại, khi Đức Dalai Lama thấy điều này, Ngài chỉ nhận thức rằng đây là nghiệp của dân Tây Tạng, và người nào tham gia vào những hành động bất lợi khủng khiếp như vậy cũng đều xứng đáng với lòng bi của chúng ta.
Theo thông lệ, khi chúng ta nhận xét người khác, nói rằng, “Đây là kẻ thù của tôi” hoặc “đây là người xấu”, chúng ta đang đang xây dựng người khác theo cách này. Khi quan niệm người khác theo kiểu này, chúng ta sẽ gặt hái vụ mùa từ chính tư duy của mình. Những gì chúng ta đưa ra, chúng ta sẽ nhận trở lại. Vậy phản ứng của Đức Dalai Lama về cái chết của Mao là thiện hay bất thiện? Đó là một phản ứng thiện. Khi tinh thần của sự tỉnh thức thực sự chín muồi trong dòng tâm thức của một người thì loại phản ứng đó xuất hiện – một đặc tính phản ứng của một người thực sự đi theo Đức Phật. Bạn có thể nghĩ nó ngờ nghệch, nhưng người Phật tử nên phản ứng như vậy.
Chúng
sanh bị phiền não do vô minh và nghiệp
Tham
gia
vào những hành động đau khổ vi sự khao khát hạnh phúc
của họ.
Thương
thay
cho mọi chúng sanh nào không khéo léo trong phương pháp!
Mọi chúng sanh đều mong muốn hạnh phúc, và thoát khỏi đau khổ. Nhưng tuy khao khát nồng nhiệt các kết quả hạnh phúc này và thoát khỏi đau khổ, họ lại không thể đạt được vì không biết những phương pháp hiệu quả đem lại các kết quả như vậy. Những người ngờ nghệch với những phương pháp này đáng được hưởng lòng bi.
Xin
ban phước cho chúng con để những phiền não tâm thức, nghiệp,
và che ám được tịnh hóa!
Trong
ngục
tù của dục vọng ích kỷ và bám chấp nhị nguyên này,
Chúng
con
giống như một con nai quay lại bẫy để sẵn sàng bị
sập bẫy.
Nếu một con nai bị sập bẫy, nó sẽ không bị mắc lại trong bẫy giống như thế. Nó sẽ học được lỗi lầm này. Về mặt này, chúng ta còn khờ hơn con nai vì về mặt dục vọng ích kỷ và bám chấp nhị nguyên về “cái tôi” chúng ta rơi vào cùng một bẫy này nhiều lần. Chúng ta chịu khổ lặp đi lặp lại nhiều lần mà không học được cách làm thế nào tránh quay trở lại cái bẫy tương tự như vậy.
Thương
thay cho những chúng sanh là đối tượng của vô minh và ảo
tưởng!
Xin
ban
phước cho chúng con để có thể ra khỏi hố thẳm sinh
tử!
Trong
sáu
thành phố không thể đào thoát của nghiệp này [12]
Như
thể
chúng con đi từ cánh của máy quay nước này đến cánh
kế tiếp.
Thương
thay
cho mọi chúng sanh trong vòng sinh tử không thể đào thoát
này!
Xin
ban
phước cho chúng con để đường sinh vào sáu cõi có thể
kết thúc!
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển Pháp Luân lần thứ nhất, Ngài khởi đầu bằng việc giảng dạy Tứ Diệu Đế. Nguyên nhân chính của Tứ Diệu Đế liên quan đến bản chất của hành vi và những hậu quả của nó, với lời khuyên làm thế nào để tránh những hành động dẫn đến đau khổ và làm thế nào dấn thân vào những hành động dẫn đến chấm dứt đau khổ. Phần lớn mọi người không chú ý đến lời khuyên này. Tất cả tám vạn bốn ngàn Pháp môn của đức Phật đều giới thiệu cùng chủ đề này. Sau thời Đức Phật đã có nhiều vị đại đệ tử, thánh nhân, và thiền sư trong truyền thống của đức Phật đã soạn thảo hàng ngàn tác phẩm. Các Ngài cũng đã nói với chúng ta những hành động nào dẫn đến đau khổ và trói buộc, những hành động nào dẫn đến hạnh phúc và giải thoát. Nhưng phần lớn mọi người lại không nghe. Tương tự, Đức Padmasambhava đến Tây Tạng và đã giảng dạy làm cách nào để tránh đau khổ và tìm thấy hạnh phúc không biến đổi. Hai mươi lăm vị đại đệ tử của Ngài và một trăm lẻ tám vi khai mật tạng một lần nữa lại hiển bày con đường đến giải thoát. Các vị thầy tâm linh hiện tại cũng cho chúng ta thấy con đường dẫn đến hạnh phúc và con đường đến đau khổ. Chúng ta thường cảm thấy mình biết nhiều hơn những vị thầy này, rằng chúng ta biết những gì tốt nhất, những gì có lợi cho người khác, và những gì sẽ giúp việc bảo tồn Giáo Pháp. Do vậy, chúng ta đưa ra nhiều lý do khác nhau để không theo lời khuyên của vị thầy tâm linh mình.
Những bậc giác ngộ vĩ đại là người có mắt nếu đem so sánh với chúng ta là những người mù. Các bậc giác ngộ biết điều gì cần tránh và điều gì cần thực hành cho hạnh phúc của chúng ta và người khác. Các bậc giác ngộ này có hai khả năng trí tuệ: hiện tượng học, và bản thể học. [13] Các Ngài giống như người lớn, và chúng ta như trẻ con. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có khuynh hướng ngoan cố chấp giữ quan điểm và ý kiến của mình. Người ta nói rằng con lừa thật cứng đầu, mà thực ra con lừa thậm chí chẳng thể so sánh được với chúng ta. Chúng ta có thể tự kiểm tra để thấy những lời bình luận trên là thực. Chúng ta không cần mù quáng chấp nhận chúng như tín điều. Chúng ta có thể tự theo dõi để thấy phản ứng và cách cư xử của chính mình. Có phải chúng ta thực sự mắc kẹt trong khuôn mẫu cư xử cũ và những lý do?
Nhiều người trong chúng ta đã thọ nhiều giới nguyện tantric khác nhau. Chúng ta được nói làm thế nào để giữ chúng, và những gì vi phạm những giới nguyện này, những lợi ích nào phát sinh nhờ giữ giới, và những bất lợi nếu phạm giới. Tất cả điều này là để giúp chúng ta. Không may, người ta thường chẳng tôn trọng giới nguyện đã thọ vì tính tư lợi của họ. Chúng ta có thể tự hỏi về những chướng ngại và cản trở phát sinh trong giai đoạn thực hành của mình. Khi phá vỡ giới nguyện hay hủy hoại mối tương quan với vị thầy tâm linh, vị Bổn Tôn đã chọn, hộ Pháp, dakini, v.v.. của chúng ta, những khó khăn và cản trở đến thực hành của chúng ta xảy ra nhanh chóng như sự trừng phạt những hành động sai lầm của ta. Không phải vị thầy tâm linh hay chư Phật trừng phạt chúng ta, mà là các hộ Pháp. Các Ngài đem sự trừng phạt đến lập tức. Vậy các hộ Pháp bảo vệ điều gì? Các Ngài cố bảo vệ chúng ta khỏi điều bất thiện, và cách các Ngài làm là đem chúng ta trở lại thích hợp với Giáo Pháp khi chúng ta đi trên con đường sai. Do kinh nghiệm sự đau khổ của những chướng ngại như vậy chúng ta được bảo vệ không bị nghiệp quả lâu dài của hành động sai lầm mình, như nhận tái sanh vào một số trạng thái sống khốn khổ. Đây là nhiệm vụ của các vị hộ Pháp, và hành động phá giới nguyện là khởi nguyên cho nhiều chướng ngại mà chúng ta gặp trong giai đoạn thực hành của mình. Do vậy, khi gặp chướng ngại, thì không có lý do nào tự hỏi, “Tại sao lại là tôi?” Thay vào đó hãy thấy và suy nghĩ những chướng ngại này liên hệ đến cách cư xử của bạn ra sao.
Có hai loại hộ Pháp: vượt thế gian, hoặc các bậc bảo hộ toàn giác, và thế gian hay các vị bảo hộ chưa giác ngộ. Các vị sau là những chúng sanh cam kết bảo tồn Phật Pháp và bảo vệ những người đi theo Giáo Pháp này. Đó là những hộ Pháp thế gian, vị bắt chúng ta phải chịu trừng phạt về những hành động sai lầm của mình.
Tuy
chứng kiến những đau khổ của sinh, già, bệnh, và chết,
Chúng
ta
lại không sợ mà vẫn còn ngoan cố.
Cuộc
sống
có nhàn rỗi và thuận lợi này trôi qua trong quá trình
sao lãng của chúng ta.
Xin
ban
phước cho chúng con để có thể chú tâm về vô thường
và cái chết!
Đối diện với sinh, già, bệnh, và chết, như thể chúng ta có can đảm chịu đựng mọi đau khổ này rồi bào chữa cho sự lãng phí thời gian năm, tháng, ngày, và giờ của mình.
Không
biết rằng sự vật vô thường là không đáng tin cậy,
Chúng
ta
vẫn thèm khát và bám chấp vào chu trình sinh tử này.
Cuộc
sống
làm người trôi qua trong đau khổ trong khi chúng ta mong
ước hạnh phúc.
Xin
ban
phước để chúng con có thể ngừng thèm khát vòng sinh
tử!
Cả thầy và trò có thể vẫn bám chấp vào sinh tử (samsara), và tùy theo bám luyến này chúng ta không gieo trồng được hạt giống thực sự của hạnh phúc.
Thế
giới vật chất vô tình thì vô thường và bị tiêu diệt
bởi nước và lửa.
Chúng
sanh
của thế giới vô tình đều vô thường, tâm thức của
chúng ta bị tách biệt khỏi thân [vào lúc chết].
Xuân,
hạ,
thu, và đông là vô thường.
Xin
ban
phước để tận đáy lòng con có thể khởi lên sự không
ảo tưởng!
Đây là một tham khảo vắn tắt đến vũ trụ học đạo Phật, thảo luận về tiến trình phát triển vũ trụ về mặt sáng tạo của hệ thống thế gian và sự hủy hoại bởi nước và lửa của nó, v.v...
Năm
ngoái, năm nay, sự khởi đầu và kết thúc của mùa màng,
Và
mọi
khoảnh khắc của ngày và đêm đều vô thường.
Nếu
điều
này được suy nghĩ kỹ, sẽ thấy rằng cái chết sẽ
đến với chúng ta.
Xin
ban
phước để chúng con có thể khởi lên dũng khí trong thực
hành.
Trong
lúc
cuộc sống nhàn rỗi và thuận lợi rất khó có được,
Thương
thay
cho những người không có Giáo Pháp và trở về trắng
tay
Khi
bệnh
tật của tử thần tấn công,
Xin
ban
phước để trong dòng tâm thức con khởi lên nhận biết
rằng không có thời gian để lãng phí.
Than
ôi!
Khốn khổ thân con! Đấng Bi Mẫn Quý báu!
Cầu
mong
Đấng Chiến thắng14, với bản năng nhân từ bi mẫn,
Xin
nhanh
chóng ban phước để chúng con có thể thực hiện
Từ
sự
đau khổ của sáu trạng thái (sáu cõi)!
Suốt toàn bộ kiếp sống của chúng ta trong vòng sinh tử, chư Phật đã quan tâm chúng ta. Ngoài ra, chư Phật, bồ tát, và những vị thầy tâm linh đã giải thích cho chúng ta về bản chất của samsara và cách thoát khỏi đau khổ. Không phải các Ngài không bảo mà vì chúng ta bỏ qua các lời khuyên của các Ngài. Chúng ta giống như những người mà, khi mặt trời mọc lại quay mặt về hướng tây, nên chẳng có gì lạ lùng khi hỏi tại sao trí tuệ của chư Phật không chiếu vào mặt chúng ta.
THỌ QUY Y BÊN NGOÀI, BÊN TRONG, VÀ BÍ MẬT
Con
đảnh lễ và thọ quy y nơi các vị thầy tâm linh
Các
bậc
thường xuyên mang trong tâm
Vô
số
chúng sanh của tam giới15 và sáu trạng thái của sinh tử,
Trong
quá
khứ, hiện tại, và tương lai.
Con
đảnh
lễ và thọ quy y nơi chư Phật,
Chư
thiện
thệ[16] ban phước của mười phương và bốn thời,
Bậc
tiên
phong trong nhân loại, được phú cho các dấu hiệu và
biểu tượng của tâm linh tỉnh giác,
Các
bậc
mà hành động giác ngộ vô tận và bao la như không gian.
Khi thọ quy y nơi chư Phật, bạn không chỉ thọ quy y nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà còn nơi chư Phật của quá khứ, hiện tại, và vị lai khắp mười phương. Về phần chư thiện thệ của bốn thời, thời thứ tư là siêu vượt thời gian tuyệt đối.
Con
đảnh lễ và thọ quy y nơi Giáo Pháp,
Giáo
Pháp
của chân lý tuyệt đối, thoát khỏi bám luyến vào chủ
nghĩa ẩn dật,
Con
đường
bất biến của ba yana (thừa),
Kinh
điển,
kho tàng, trao truyền miệng, và các hướng dẫn thực
tế.
Ba yana là Hinayana, Mahayana, và Vajrayana (Thanh Văn Thừa, Đại Thừa, và Kim Cương Thừa). Kinh điển cũng được gọi là kama (Tạng, bka’ ma), trong lúc kho tàng được gọi là terma (Tạng, gter ma). Thuật ngữ trao truyền miệng là trong sáng rõ ràng, và sau này các thiền sư và học giả ban hướng dẫn thực tế kết hợp với kinh điển và kho tàng.
Con
đảnh lễ và thọ quy y nơi tăng đoàn,
Lãnh
vực
của các tập hội siêu phàm an trụ trên con đường
không lỗi.
Tập
hội
của các arya,[17] các bậc đã hoàn toàn thoát khỏi dấu
vết nhiễm ô của tâm thức phiền não.
Chư
bồ
tát, sravakas, và pratyekabuddha, các bậc duy trì cao nhất
sự hiển lộ của các Đấng Chiến Thắng.
Con
đảnh
lễ và quy y nơi các vị thầy tâm linh,
Các
vị
là thật tánh của tất cả chư Phật ba thời,
Các
bậc
lãnh đạo của tất cả mandala vô song, bí mật,
Các
bậc
mà, với sự ban phước và lòng bi, dẫn dắt tất cả
chúng sanh.
Con
đảnh
lễ và thọ quy y nơi nguyên tố đã chọn
Các
bậc
là Pháp Thân, bất sinh và thoát khỏi những cực đoan
của tâm thức tạo tác,
Lưu
xuất
như các Bổn Tôn hiền minh và phẫn nộ vì lợi ích
của thế gian,
Ban
các
thành tựu thông thường và tối thượng.
Mối tương quan giữa Pháp Thân bất sinh và các lưu xuất của Bổn Tôn hiền minh và phẫn nộ giống như mặt trời và những tia sáng chiếu ra. Những Bổn Tôn hiền minh và phẫn nộ ban các thành tựu thông thường và tối thượng chỉ khi quán tưởng hoặc nhận biết các Ngài.
Con
đảnh lễ và thọ quy y nơi tập hội dakini,
Các
bậc
di chuyển trong hư không với năng lực lòng bi của bản
thân thực tại,
Các
bậc
ban cực lạc tối thượng từ một nơi an trụ thanh tịnh,
Và
ban
thành tựu cho những ai gìn giữ samaya của họ.
Thuật
ngữ dakini của Tây Tạng là khandro-ma. Kha có nghĩa là hư không,
dro là hành (đi) và ma chỉ cho người nữ. Nguyên nghĩa một
dakini là một không hành nữ. “Không” ở đây ám chỉ bản
tánh tuyệt đối của thực tại. Dakini đã nhận ra chân lý
tuyệt đối đó, các Ngài hoạt động và an trụ trong tánh
giác của thực tại đó và chưa từng dao động. Đó là phân
tích tự nguyên của thuật ngữ dakini: các Ngài chuyển quanh
trong không gian của tự thân thực tại, tánh tuyệt đối của
thực tại.
Có
phải
tất cả các vị Phật dakini là người nữ? Khía cạnh
trí tuệ của bất kỳ vị Phật nào đều là dakini, và khía
cạnh phương tiện của một vị Phật được nhân cách hóa
là một daka, là người nam giống hệt như dakini. Về mặt
Bổn Tôn và phối ngẫu, Bổn Tôn nam là hiện thân của khía
cạnh phương tiện giác ngộ, và vị phối ngẫu là hiện thân
của khía cạnh trí tuệ giác ngộ.
Con
thọ quy y nơi bản tánh, tinh túy, và lòng bi thanh tịnh
Trong
tánh
Không nguyên sơ thoát khỏi tâm thức tạo tác;
Và
con
thọ quy y nơi trạng thái không bám chấp, siêu vượt trí
năng,
Trong
bản
tánh đại rộng mở bao la của sự viên mãn đồng nhất.
Trong trường hợp này, việc thọ quy y và người thọ quy y cả hai đều siêu vượt trí năng cũng như với bất cứ ý nghĩa nào của chủ thể chống lại đối tượng.
Con
thọ quy y nơi sự trong sáng tự nhiên không trung gian, phi khái
niệm,
Sự
đồng
nhất của năm hiện thân nguyên sơ của bản tánh tự
sinh,
Trong
mạch18]
vajra của thanh tịnh quang của tánh giác con
Trong
mandala
của bindu của thực tại và tánh giác tuyệt đối rỗng
không và trong sáng.
Con
thọ
quy y nơi năng lực sáng tạo tự nhiên, bất tận của
Đấng Bi Mẫn Toàn Giác,
Những
tia
sáng hoan hỷ của năng lực sáng tạo của tánh giác, xuất
hiện và giải thoát, bất tận,
Từ
kinh
nghiệm này của tính phi khái niệm, khiến xua tan bóng
tối trong tâm thức của chúng sanh
Trong
suốt
ba thời, không có khởi đầu hay kết thúc.
Để hiểu toàn bộ ý nghĩa của hai câu kệ này, bạn phải học hỏi kỹ lưỡng giáo lý về Mahamudra và Atiyoga, nhất là liên quan đến giai đoạn Xuyên thấu và Nhảy vượt lên của thực hành Atiyoga. Chỉ khi đó bạn sẽ thấy ý nghĩa của hai câu kệ trên. Đâu là ranh giới giữa quy y bên ngoài, bên trong, và bí mật? Ngoại quy y là Phật, Pháp, Tăng và vị thầy tâm linh của hành giả. Nội quy y là vị thầy tâm linh lần nữa của hành giả, vị Bổn Tôn đã chọn và dakini. Cuối cùng bí mật quy y là “thọ quy y trong kinh nghiệm phi bám chấp siêu vượt trí năng.”
PHÁT TRIỂN TINH THẦN TỈNH GIÁC CỦA MAHAYANA
Than
ôi! Mọi hiện tượng đều rỗng không và không đồng nhất,
Thương
thay
cho mọi chúng sanh không nhận ra điều này!
Để
cho
những người thích hợp với lòng bi có thể đạt giác
ngộ,
Con
sẽ
dâng hiến thân, khẩu, và ý của con cho đức hạnh.
Cho
lợi
ích của tất cả chúng sanh trong sáu cõi sinh tử,
Từ
bây
giờ cho đến khi đạt được giác ngộ,
Con
sẽ
phát triển tinh thần của giác ngộ tối thượng,
Không
chỉ
cho chính con; mà còn cho tất cả chúng sanh.
Thương
thay
cho những người không có Giáo Pháp, tự trói buộc chính
họ
Trong
đại
dương đau khổ bao la!
Để
cho
những người xứng đáng với lòng bi có thể được đem
đến hạnh phúc,
Con
sẽ
phát triển tinh thần của giác ngộ tối thượng.
Vô
số
chúng sanh và chính con
Đều
là
bản tánh nguyên sơ của Đức Phật.
Con
sẽ
phát triển tinh thần của giác ngộ tối thượng
Như
một
bậc vĩ đại để biết rằng
Chúng
con
thật sự là bản tánh Phật.
Đại
dương sinh tử của thế gian giống như một ảo ảnh.
Không
sự
đa hợp nào là thường hằng.
Bản
tánh
của chúng là rỗng không và chẳng đồng nhất.
Người
thiếu
kinh nghiệm lại không nhận ra điều đó,
Lang
thang
qua mối nối của thập nhị duyên sinh trong chu trình của
sự trở thành.
Để
bị
kẹt trong bãi lầy của danh và sắc
Cầu
mong
đạt được Phật quả, con sẽ hồi hướng
Thân,
khẩu,
và ý của con cho đạo đức.
“Danh và sắc” cùng bao gồm một trong thập nhị duyên sinh. “Danh” đặc biệt ám chỉ tâm thức, và “sắc” chỉ cho thân thể. Chúng ta bị “mắc kẹt trong vũng lầy của danh và sắc” qua sự bám luyến vào chu trình sinh tử. Do vậy, chúng ta giống như một con voi thích tắm trong bùn. Nó giống như cảm giác của bùn áp vào da, nhưng khi bùn ngập lên đầu, nó không đứng vững và té xuống. Con voi đi vào chỗ này vì sự bám luyến vào bùn. Sự mắc kẹt này cũng giống như con ong bị loại hoa ăn côn trùng hấp dẫn. Nó đến với bông hoa vì bị mật hoa lôi cuốn, nhưng một khi bị kẹt vào bên trong, thì hoa đã khép lại trùm lên nó.
Nơi
Phật, Pháp, và Tăng đoàn tối thượng
Con
thọ
quy y cho đến khi giác ngộ,
Nhờ
công
đức thực hành bố thí và v.v...
Cầu
mong
con thành tựu Phật quả vì lợi ích của thế gian.
“Thực hành bố thí”, ám chỉ mọi loại công đức. Có ba loại bố thí: bố thí vật chất, thí vô úy, và Pháp thí.
Cầu
mong con trở thành một vị thầy tâm linh để dẫn dắt
Vô
số
chúng sanh không loại trừ ai.
Một vị thầy tâm linh không chỉ là người mặc y áo màu vàng hay nâu, hoặc người ngồi trên một Pháp Tòa. Vị thầy tâm linh chân chính là một người đã phát triển tinh thần tỉnh giác và trở thành một bồ tát.
Cầu
mong tất cả chúng sanh có được hạnh phúc!
Cầu
mong
mọi người thoát khỏi đau khổ và các nguyên nhân gây
khổ!
Cầu
mong
chúng con có được hoan hỷ thoát khỏi phiền muộn!
Cầu
mong
chúng con an trụ trong thanh thản thoát khỏi bám luyến
và thù hận!
Dòng đầu tiên ở đây nói đến sự trau dồi về tình thương-lòng tốt vô lượng, dòng thứ hai về lòng bi vô lượng, dòng thứ ba về lòng hoan hỷ cảm thông vô lượng, và dòng thứ tư về tính thanh thản vô lượng. Nếu bạn muốn hiểu chi tiết sâu hơn về Bốn Vô Lượng, hãy xem bản văn kinh điển của Ngài Santideva, Một Hướng Dẫn Về Con Đường Bồ Tát của Cuộc Sống. Nếu có thể trau dồi điều này, chắc chắn nó sẽ mang lại lợi ích thật sự cho dòng tâm thức bạn.
TỤNG NIỆM MANTRA MỘT TRĂM ÂM ĐỂ TỊNH HÓA TỘI LỖI VÀ CHE ÁM
Bây giờ chúng ta sang sự thực hành tụng niệm Vajrasattva “một trăm âm” để tẩy sạch tội lỗi và che ám. Có hai loại che ám. Loại che ám vi tế được gọi là che ám nhận thức hoặc che ám tri kiến, chủ yếu là những xu hướng tiềm tàng của tâm thức phiền não. Loại thô hơn là các che ám phiền não, như sân hận, bám luyến, ảo tưởng, v.v... Thực hành Vajrasattva được thiết kế để tịnh hóa hai loại che ám này.
Trên
một ngai hoa sen và mặt trăng ở đỉnh đầu con
Là
thân
tướng của vị thầy tâm linh như Phật Vajrasattva.
Thân
Ngài
như pha lê và nơi ngực
Là
một
trăm âm xoay chung quanh chữ HUM trên một đĩa mặt trăng.
Một
dòng
cam lồ chảy xuống xuyên qua lỗ mở Brahma (Phạm Thiên
– lỗ mở đỉnh đầu) của con.
Tịnh
hóa
sự vi phạm, tội lỗi và che ám của con.
Con
cầu
nguyện Đức Thế Tôn Vajrasattva Quang Vinh lập tức
Ban
một
dòng cam lồ của trí tuệ nguyên sơ
Để
tịnh
hóa tội lỗi và che ám
Của
chúng
con và mọi chúng sanh trong thế gian.
OM VAJRASATTVA SAMAYAM ANUPALAYA VAJRASATTVA TVENOPATISTHA DRDHO ME BHAVA SUTOSYO ME BHAVA SUPOSYO ME BHAVA ANURAKTO ME BHAVA SARVA SIDDHIM ME PRAYACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTAM SRIYAM KURU HUM HA HA HA HA HOH BHAGAVAN SARVATATHAGATA VAJRA MA ME MUNCA VAJRA BHAVA MAHASAMAYA SATTVA AH.
Đây là một thực hành cực kỳ quan trọng, được đề cập hoàn toàn chính xác ở đây, nhưng các hướng dẫn chi tiết hơn có thể tìm trong những giáo lý khác trong các thực hành tiên khởi. Lợi ích của thực hành này rất xác thực. Có những giáo lý khác về Atiyoga và các giáo lý khác mà chúng ta có thể xem xét nhiều về mặt nâng cao và bí mật hơn, nhưng vấn đề là chúng ta có thể được lơị ích bao nhiêu từ các giáo lý này và có thể thực sự đi vào kinh nghiệm của Đại Viên Mãn được bao nhiêu. Dù sao, ở đây cũng là một lợi ích thực tế. Nếu bạn quen thuộc với thực hành này, việc chia sẻ với những ngươi khác có thể là người mới nhập môn thì rất tốt. Nhờ thực hành như vậy, hai loại che ám sẽ được tịnh hóa. Một khi mọi che ám được hoàn toàn tịnh hóa, bạn là một vị Phật; và điều đó có nghĩa bạn đã giác ngộ Đại Viên Mãn.
Do
vô minh, ảo tưởng, và khờ dại,
Con
đã
phạm samaya, và giới nguyện suy giảm.
Ôi
vị
thầy tâm linh, hộ pháp, xin bảo vệ con,
Đấng
Thế
Tôn Vajradhara (Kim Cương Trì) quang vinh,
Bậc
nhân
từ của lòng đại bi,
Đấng
Thế
Tôn, xin bảo vệ con!
Xin
tẩy
sạch và tịnh hóa toàn bộ
Tội
lỗi,
che ám, lỗi lầm, sa sút, và dấu vết nhiễm ô.
Nhờ
công
đức này, cầu mong con bây giờ
Nhanh
chóng
biến thành Đức Vajrasattva
Và
nhanh
chóng đem mọi chúng sanh
Không
loại
trừ ai đến trạng thái đó.
Ôi
Đức
Vajrasattva, cầu mong con có thể trở thành thân tướng
đúng
Như
Ngài,
với quyến thuộc, thọ mạng, tịnh độ
Và
với
những dấu hiệu xuất sắc, tối cao của Ngài.
CÚNG DƯỜNG MANDALA
Một khi bạn đã bắt đầu tịnh hóa hai loại che ám, đây là nhiệm vụ tích lũy hai loại công đức và trí tuệ cho lợi ích chính bạn và người khác. Lợi ích của người khác được thành tựu trong sự giác ngộ của Rupakaya (Sắc Thân) hay thân hóa hiện của đức Phật; và nó là việc nhằm đạt tới vào lúc cuối mà bạn cúng dường mandala.
OM
VAJRA BHUMI AH HUM.
Mặt
đất
trở thành vàng ròng.
OM
VAJRA
REKHE AH HUM.
Ranh
giới
được bao quanh bằng một hàng rào kim loại quý.
Ở
giữa là vua các ngọn núi,
Huy
hoàng
trong việc hợp thành bằng năm loại vật chất quý.
Hình
dáng
thu hút, đẹp đẽ, và vui thích để nhìn ngắm,
Bảy
đại
dương bao quanh đồng tâm bảy ngọn núi vàng.
Phương
đông
là châu lục Videha, phía nam là Jambudvipa,
Huớng
tây
được tô điểm châu Godaniya,
Và
phương
bắc là đại Uttarakuru;
Với
tám
châu lục phụ Deva và Videha,
Camara
và
Aparacamara,
Satha
và
Uttaramantrina,
Kurava
và
Kauvara,
Mặt
trời,
mặt trăng, Rahu và Kalagni,
Và
sự
giàu sang, hưởng thụ phong phú này của trời và người,
Con
xin
cúng dường đến vị thầy tâm linh quý báu và quyến thuộc
của Ngài,
Vì
lợi
ích của thế gian, vì lòng bi, xin hãy tiếp nhận.
Đây là một trong nhiều tụng niệm về cúng dường mandala. Điều quan trọng để nhận biết rằng sự cúng dường vật chất của mandala với cơ sở và các nhúm gạo v.v... chỉ là sự trợ giúp cho sự cúng dường thực tế mandala. Về mặt quán tưởng của bạn, hãy quán tưởng tất cả đối tượng của sự cúng dường như các vị thầy tâm linh của bạn, sự quy y Phật, quy y Pháp, và quy y Tăng – vô lượng chư vị trong bản chất. Bạn cũng đem sự cúng dường bao la như đám mây cúng dường của Đức Samantabhadra này đến các đối tượng quy y ấy một cách tương ứng. Trong con mắt của tâm bạn, nên quán tưởng sự cúng dường hiện tại này là vô lượng. Có nói rằng sự cúng dường mandala tốt nhất là không có bất cứ ý nghĩa vật chất hóa cụ thể nào. Đó là, khi bạn cúng dường, trong tâm bạn xuất hiện không có thực chất người nhận cúng dường và không có thực chất vật được cúng dường, cũng như về thực chất bạn cũng không là người cúng dường. Do vậy, ba điều này – đối tượng, hành động cúng dường cùng với chất liệu được dâng cúng và chính bản thân bạn như người cúng dường – đều vô tự tánh, và tất cả điều này đều cùng một bản tánh.
OM
AH HUM
Cung
điện
của thiên hà hữu tình và vô tình được bao phủ với
Vô
số
đám mây cúng dường của Núi Tu Di và các châu lục.
Tất
cả
vô lượng hưởng thụ của trời và người
Con
dâng
cúng đến cõi Hóa Thân của vị thầy tâm linh quý báu.
Xin
xem
xét điều này với lòng từ bi của Ngài và tiếp nhận
nó,
Và
cầu
mong tất cả chúng sanh được sinh vào cõi Nirmanakaya!
“Thiên
hà” này là hệ thống hàng ngàn tỉ thế giới thường được
nhắc đến trong vũ trụ học đạo Phật. “Hữu tình” chỉ
cho chúng sanh, và “vô tình” chỉ cho điều kiện thiên nhiên
vô tri vô giác. Bạn quán tưởng thiên hà này hoàn toàn tỏa
khắp bằng những đám mây cúng dường, rộng lớn và bao la như bạn có thể quán.
Hãy
chắc
rằng sự cúng dường của bạn bao gồm toàn bộ môi
trường, cùng với núi non, sông hồ, ghềnh thác, đất đai,
cây cối, biển cả, v.v... tất cả chúng sanh - nam, nữ, mọi
hưởng thụ, tài sản, sự thịnh vượng, hạnh phúc của họ
– đều được dâng cúng. Hãy quán tưởng mọi đối tượng
mà bạn bám luyến, ưa thích trong tướng thanh tịnh của chúng
và cúng dường cho cõi Nirmakaya của vị thầy tâm linh và các
đối tượng quy y. bạn có thể làm loại thực hành này không
chỉ trong lúc ngồi thiền định, mà còn trong lúc tham gia vào
các hoạt động hàng ngày, giống như lái xe.
OM
AH HUM
Cung
điện
của nguyên tố và kinh mạch thanh tịnh của thân con
Được
trang
hoàng với năm khả năng sáng chói và huy hoàng.
Những
nguyên
tố và giác quan tinh khôi này
Con
cúng
dường đến cõi Sambhogakaya của vị thầy tâm linh quý
báu.
Xin
xem
xét điều này với lòng từ bi của Ngài và tiếp nhận
nó,
Và
cầu
mong tất cả chúng sanh được sinh vào cõi Sambhogakaya!
Giống như trường hợp trước trong đó trái đất được trang hoàng với mặt trời, mặt trăng, v.v..., ở đây thân thể được trang hoàng với những nguyên tố và kinh mạch thanh tịnh, bao gồm đất, nước, v.v.... Khi cúng dường đến cõi Sambhogakaya, hành giả cúng dường nguyên tố, kinh mạch, và dịch tinh túy thanh tịnh bên trong thân.
OM
AH HUM
Trong
cung
điện an trụ của Dharmakaya thanh tịnh
Tự-bản
tâm
trong phạm vi của phi khách quan, rỗng rang trong sáng, và
không bám chấp.
Trí
tuệ
thanh tịnh khởi nguyên, vốn sẵn, nguyên sơ này
Con
cúng
dường đến cõi Dharmakaya của vị thầy tâm linh quý
báu
Xin
xem
xét điều này với lòng từ bi của Ngài và tiếp nhận
nó,
Và
cầu
mong tất cả chúng sanh được sinh vào cõi Dharmakaya!
Nhóm từ “thanh tịnh khởi nguyên” ám chỉ thanh tịnh nguyên sơ của bản tâm, và không phải một số thanh tịnh bất định tự nhiên hay tạm thời nào. Trong cúng dường khởi nguyên này, môi trường bên ngoài được cúng dường đến Nirmanakaya, các nguyên tố và kinh mạch của thân bạn được cúng dường đến Sambhogakaya và bản tâm – tâm của trí tuệ nguyên sơ này – được dâng cúng đến cõi Dharmakaya.
Trong cúng dường khác, bạn dâng cúng những kinh mạch của thân trong tướng thanh tịnh đến cõi Nirmanakaya, năng lượng cần cho sự sống được cúng dường đến cõi Sambhogakaya, và dịch tinh túy được cúng dường đến cõi Dharmakaya. Cấp độ bí mật cúng dường gắn liền với tinh túy của tánh giác, bản chất của sự tỉnh giác, và lòng bi tỏa khắp của giác tánh. Tinh túy được cúng dường đến Dharmakaya; bản chất được cúng dường đến Sambhogakaya; và lòng bi tỏa khắp được cúng dường đến Nirmanakaya. Tất cả các cúng dường này hoạt động như nguyên nhân cho chúng ta đạt được ba hóa thân Phật.
Có hai phương thức cúng dường mandala chung. Một là cúng dường mandala thực tế, và cái khác là cúng dường mandala của sự cúng dường. Có nhiều tụng niệm khác nhau về điều này, như cúng dường mandala ba mươi bảy phần, và có hai cách cúng. Trong cúng dường mandala thực tế, phương đông đối diện với bạn. Mandala đầy đủ được tạo ra; và một khi đã được thực tế hóa, nó được đặt sang một bên. Sau đó nó trở thành một tiêu biểu đã được thực tế hóa cho một sự khởi đầu. Trong việc thực hiện cúng dường mandala đơn giản như một cúng dường, phương đông trước bạn và các châu lục khác, v.v... được trình bày theo hướng đó xa dần, một khi nó được dâng cúng, mandala bên ngoài bị suy sụp.
Như tôi đã nói, có nhiều nghi lễ cúng dường mandala khác nhau, một số có ba mươi bảy phần, một số khác có hai dòng, và một số có bốn dòng; nên bạn có thể làm thực hành này với nhiều mức độ tỉ mỉ khác nhau. Mục đích của cúng dường mandala là làm giảm khuynh hướng “Tôi cần” và “Tôi muốn” nhờ đó chống lại khuynh hướng bám chấp của chúng ta. Cũng nên nhớ trong tâm rằng cúng dường mandala không đơn giản là cúng dường hình thức với những nghi lễ; mà hơn nữa mọi cúng dường đều được dung chứa trong cúng dường mandala. Thậm chí trong thực hành Cắt Đứt, trong đó bạn cúng dường chính thân bạn, là một cúng dường mandala bằng chính thân bạn. Nói chung, tất cả bốn loại bố thí cũng đều là biểu hiện của cúng dường mandala.
Sự thực hành cúng dường mandala phổ biến khắp phẩm cấp tâm linh của Phật giáo Tây Tạng, bao gồm Gelug. Truyền thống Gelug có nhiều bản dịch cúng dường này và được thực hành rất rộng rãi. Trong phạm vi văn học Gelug, chẳng hạn, nó được tìm thấy trong những bản viết về các giai đoạn của con đường. Nó cũng được giảng dạy rộng rãi trong phái Sakya và Kagyu. Do vậy, điều quan trọng khi bạn thực hành là đừng chỉ thực hiện nghi lễ bên ngoài của việc đặt những nhúm gạo nhỏ, mà hãy nhận biết ý nghĩa to lớn của việc cúng dường mandala. Các bàn luận rộng hơn về bản chất và ý nghĩa việc cúng dường mandala được tìm thấy trong các giáo lý về thực hành tiên khởi.
OM
AH HUM
Nhờ
cúng
dường madala tốt lành và mang lại hoan hỷ này,
Cầu
mong
những chướng ngại không phát sinh trên con đường đến
giác ngộ,
Cầu
mong
ý nguyện của chư thiện thệ ba thời được nhận biết,
Và
không
bị rối loạn trong vòng sinh tử hay trụ trong ẩn dật,
Cầu
mong
chúng sanh khắp không gian được giải thoát!
OM AH HUM MAHAGURU DEVA DAKINI RATNA MANDALA PUJA MEGHA SAMUDRA SPHARANA SAMAYA AH HUM
OM
AH HUM
Nhờ
cúng
dường madala tốt lành và mang lại hoan hỷ này,
Cầu
mong
những chướng ngại không phát sinh trên con đường đến
giác ngộ,
Cầu
mong
ý nguyện của chư thiện thệ ba thời được nhận biết,
Và
không
bị rối loạn trong vòng sinh tử hay trụ trong ẩn dật,
Cầu
mong
chúng sanh khắp không gian được giải thoát!
Đến
Dharmakaya
Samantabhadra (Phật Pháp Thân Phổ Hiền), Đức Thế
Tôn bổn nguyên,
Đến
Đấng
Chiến Thắng Vajradhara (Phật Kim Cương Trì), bản tánh
của sáu (gia đình Phật)
Và
đến
Tâm tối thượng Vajrasattva (Phật Kim Cương Tát Đỏa),
bậc dẫn đạo lỗi lạc nhất –
Con
cầu
nguyện đến dòng truyền thiền định của đấng Chiến
Thắng,
Đến
Vidyadhara
(Trì Minh Vương) Garab, hiện thân cao nhất của chúng
sanh,
Đến
Guru
Sri Simha (Đạo sư Sư Tử), con trai tâm linh tiên phong của
đấng Chiến Thắng,
Đến
đức
Padmasambhava bất tử, bậc đạt được thân vajra (kim
cương),
Đến
dakini
Yeshe Tsoyal, kinh mạch bí mật của mantra –
Con
cầu
nguyện đến dòng truyền của trí tuệ Vidyadhara (Trì
Minh).
Dòng
truyền
Atiyoga đầu tiên là từ Phật Samantabhadra, đến Phật
Vajrasattva. Dòng truyền thứ hai theo sau từ Garab Dorje,
xuống Sri Simha, Padmasambhava, và Yeshe Tsoyal. Yeshe Tsogyal là Bà
Chủ của dòng truyền mantra bí mật này.
Đến
Karma Lingpa, bậc thầy của kho báu uyên thâm,
Đến
bậc
có danh hiệu Choje, con trai thân yêu cao nhất của Ngài,
Đến
bậc
có tên Suryacandra, vị bảo vệ thế gian trong thời buổi
suy đồi –
Con
cầu
nguyện đến dòng truyền riêng biệt có thẩm quyền về
giáo lý khẩu truyền.
Đến
các
bậc thầy của Giáo Pháp, vị tăng Trung Quốc tên Namkha,
Đến
Sonam
Ozer, bậc nhận ra ý nghĩa của hai giai đoạn,
Đến
Puniya
Sri tôn kính, bậc viên mãn hai tích lũy,
Đến
Sonam
Chokyongwa, bậc thành tựu tự nhiên hai mục đích,
Đến
Natsok
Rangsandrol, bậc dẫn dắt cao nhất của ba thời,
Đến
Kunga
Drakpey Pal, bậc bảo vệ chúng sanh của tam giới,
Đến
Dongak
Tendzin Je, bậc hiện thân của ba dạng hóa thân,
Đến
Trinley
Lhundrup Tsal, bậc tiến bộ qua bốn cái thấy,
Đến
Gyurmey
Dorje Dey, chủ tể của bốn hiện thân,
Đến
Lochen
Dharmasri, bậc hiển lộ bốn ý nghĩa của quán đảnh,
Đến
Rinchen
Nampargyal, người con của các Đấng Chiến Thắng,
Đến
Padma
Tendzin, Hóa thân cao nhất của chúng sanh,
Đến
Karma
Vijaya, bậc bảo quản di sản của các Vidyadhara,
Đến
Trinley
Chokyi Dron, của đại lạc và rỗng không bẩm sinh,
Đến
Dorje
Ziji Tsal, bậc sở hữu bảy dòng truyền miệng,
Đến
Gyurmey
Ngedong Wang, bậc lĩnh hội trực tiếp tự thân thực
tại,
Đến
Dudjom
Drodul Ling, kho tàng của sự chín muồi, giải thoát, và
phát triển,
Đến
các
Bổn Tôn hiền minh và phẫn nộ đã chọn của hình tướng
và rỗng không bất khả phân,
Đến
đại
dương các tập hội chư dakini, họâ pháp, và chư vị
bảo tồn giới nguyện,19[19]
Con
cầu
nguyện đến tập hội các Bổn Tôn của ba gốc.
Trên đây là danh sách nhiều vị vĩ đại trong dòng truyền này. Việc cho bạn một ý niệm rõ ràng về sự thành tựu của mỗi vị này thì quá dài. Tuy nhiên bạn có thể học hỏi về các Ngài từ những bản dịch Anh ngữ khác.20[20]
Ôi
các vị thầy tâm linh của dòng truyền miệng, bậc cống hiến
bất cứ rèn luyện nào cần thiết,
Nếu
giáo
lý các Ngài bị rơi vào suy hoại,
Sẽ
là
sự phiền muộn vì sinh vào thời đại này,
Do
vậy
xin dẫn dắt tất cả chúng sanh khỏi sình lầy của sinh
tử,
Nếu
chúng
con kêu cầu gào thét với lo sợ đến Ngài,
Xin
hãy
suy nghĩ lời hứa trang trọng của Ngài trước đây.
Từ
sự
rộng mở của không gian bản tánh tuyệt đối, xin hiển
lộ sự khuyến tấn của các Ngài, với các dấu hiệu và
biểu tượng của giác ngộ,
Và
dẫn
dắt tất cả chúng sanh khỏi bùn lầy của sinh tử.
Nhóm từ “hiển lộ sự khuyến tấn của các Ngài”, là một khẩn cầu Đức Phật xuất hiện trong kiến thanh tịnh này, trong đó rất nhiều hóa thân khác nhau của Đức Phật xuất hiện có tất cả dấu hiệu và biểu tượng của sự giác ngộ.
Với
âm thanh Brahma (Phạm Thiên) vang rền của tánh Không,
Cầu
mong
lối vào kho tàng tâm được rộng mở,
Và
với
những tia sáng chảy tràn ra từ trí tuệ và lòng bi của
các Ngài,
Xin
dẫn
dắt tất cả chúng sanh khỏi sình lầy sinh tử.
Dòng đầu tiên trên ám chỉ ngữ của Đức Phật và nguyên nghĩa có nghĩa là “lời nói rỗng không”. Đây là ngữ được phú cho sáu mươi phẩm tính của ngữ một vị Phật. Nó không có nghĩa lời rỗng không trong nghĩa lời vô lý hoặc sai lạc.
Ngay
bây giờ xin giải thoát tất cả chúng sanh của kỷ nguyên
này!
Ngay
bây
giờ xin ban dòng chảy bốn quán đảnh nguyên sơ!
Ngay
bây
giờ xin giải thoát bốn liên tục21[21] của dòng chảy
tâm thức phiền não rối loạn!
Xin
dẫn
dắt tất cả chúng sanh khỏi sình lầy sinh tử!
Ngay
bây
giờ xin ban kết quả bốn quán đảnh của chư thiện thệ!
Cầu
mong
con trở thành một vị thầy tâm linh để dẫn dắt
Tất
cả
vô hạn chúng sanh cha mẹ khắp không gian.
Xin
dẫn
dắt tất cả chúng sanh khỏi sình lầy sinh tử.
Những vị thầy tâm linh chân chính đảm nhận việc sinh ra và sống vì lợi ích của chúng sanh khác. Các Ngài đến thế gian này giống như Đức Phật Sakyamuni, để phục vụ người khác, trách nhiệm các Ngài là phục vụ dù chúng ta có lắng nghe hay không. Tương tự, Đức Padmasambhava lập một lời hứa để sống và giảng dạy vì lợi ích của thế gian. Đây là các gương mẫu của những lama ngày nay, bao gồm Đức Dalai Lama, Gyalwa Karmapa, và Kyabje Dudjom Rinpoche. Tất cả các bậc vĩ đại này đã trang trọng lập nguyện trong quá khứ để được phục vụ, và các Ngài thực hiện lời hứa của các Ngài cho những người bây giờ còn sống.
Ngày nay, cũng có các vị lama cao cấp này vẫn còn sống ở Tây Tạng, như Ngài Khenpo Jigmey Phuntsok, Ngài đã đến Bắc Mỹ năm 1993. Ngài là một trong những vị vĩ đại nhận việc tái sanh trở lại nhằm thực hiện lời hứa của Ngài là phục vụ. Nếu chúng ta thực hiện mục đích của mình, điều quan trọng là lắng nghe và tiếp nhận những gì tốt đẹp mà những vị thầy đã nói. Các bậc vĩ đại đã xuất hiện – như Phật Sakyamuni, Padmasambhava, v.v.. – mà hiện nay chúng ta chẳng sẵn sàng cũng không lắng nghe các Ngài. Chúng ta làm ngược lại với những gì các Ngài khuyên bảo, thế nên chúng ta vẫn còn trong sinh tử. Nếu tiếp tục quay lưng với lời khuyên của các bậc vĩ đại này, chúng ta sẽ tiếp tục lang thang trong tương lai. Không thể thấy trước kết thúc của chu trình tự duy trì này, nên chúng ta có thể lang thang trong samsara trong nhiều niên kỷ vô tận. Các vị vĩ đại cống hiến những giáo lý có thể đưa chúng ta đến toàn giác trong một kiếp này. Hiện tại chúng ta có cơ hội này và có khả năng đem sự thực hành này qua sự tích lũy của nó. Nó là sự chọn lựa của chúng ta cho dù ta có áp dụng các giáo lý này vào thực hành hay không để nhận ra tiềm năng của chúng khi chúng được áp dụng vào cuộc sống chúng ta.
THIỀN ĐỊNH VỀ VIỆC TIẾP NHẬN BỐN QUÁN ĐẢNH
Từ
đỉnh đầu của vị thầy tâm linh với phối ngẫu
Chữ
OM
màu trắng cùng với những tia sáng
Đi
xuống
điểm giữa hai chân mày của con.
Nhờ
nhận
được quán đảnh cái bình, những che ám thân thể được
tịnh hóa.
Xin
ban
cho con các thành tựu của thân.
Tiếp nhận quán đảnh đầu tiên này thiết lập trong chúng ta những chủng tử cho việc đạt được Hóa Thân, và nó trao quyền cho chúng ta thực hành giai đoạn phát triển.
Từ
cổ họng của vị thầy tâm linh với phối ngẫu
Chữ
AH
màu đỏ cùng với những tia ánh sáng
Đi
xuống
vị giác của con.
Nhờ
nhận
được quán đảnh bí mật, những che ám của ngữ được
tịnh hóa.
Xin
ban
cho con các thành tựu của ngữ.
Điều này xây dựng trong chúng ta những chủng tử để thành tựu Báo Thân và sáu mươi phẩm tính của ngữ một vị Phật.
Từ
ngực của vị thầy tâm linh với phối ngẫu
Chữ
HUM
màu xanh dương đậm cùng với những tia sáng
Đi
xuống
giữa ngực con.
Nhờ
nhận
được quán đảnh trí tuệ nguyên sơ, các che ám tâm
thức được tịnh hóa.
Xin
ban
cho con các thành tựu của ý.
Quán đảnh thứ ba này cho sự tịnh hóa tất cả che ám của tâm, và gieo trồng các chủng tử cho việc thành tựu Pháp Thân.
Từ
rốn của vị thầy tâm linh với phối ngẫu
Chữ
HRIH
màu đỏ với những tia sáng
Đi
xuống
giữa rốn con.
Các
che
ám của việc bám chấp vào ba cửa khác nhau được tịnh
hóa.
Và
con
nhận được cái thứ tư, quán đảnh bẩm sinh; bất khả
phân.
Với quán đảnh thứ tư này, chúng ta có thể thành tựu bốn hiện thân của một vị Phật, cái thứ tư là svabhavakaya, cũng được gọi là jnanakaya, hiện thân của trí tuệ nguyên sơ.
Vị
thầy tâm linh nguyên sơ, quý báu quang vinh,
Liên
tục
tồn tại bất khả phân
Trong
trung
tâm hoa sen của ngực con,
Và
trông
nom con với lòng bi của Ngài!
Xin
ban
cho con các thành tựu của thân, khẩu, và ý.
Vị
thầy
tâm linh quang vinh, cầu mong con trở thành đúng như
Hình
tướng
Ngài, với quyến thuộc, thọ mạng , cõi tịnh độ,
Và
với
những dấu hiệu xuất sắc, tối thượng của Ngài.
Lời cuối sách
Gắn việc thực hành này là thích hợp cho việc rèn luyện dòng tâm thức của bạn với thực hành chuẩn bị của Giáo Pháp thâm sâu của giải thoát tự nhiên qua thiền định hiền minh và phẫn nộ. Hoạt động tâm linh của Mahayana vô song là lời khuyên của Ngài Choje Lingpa, con trai tâm linh chính của khai mật tạng Karma Lingpa; và được viết bởi Guru Suryacandra.
(Nhất thiết cát tường!)