Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Tựa

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10418)
Lời Tựa

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

LỜI TỰA

blankLama Thubten Yeshe (1935-1984) truyền pháp Heruka Vajrasattva lần đầu tiên cho khoảng hai mươi lăm người đệ tử phương Tây tại tu viện Kopan thuộc Nepal vào tháng 4 năm 1974.

Những chi tiết đáng chú ý về cuộc đời Lama Yeshe giờ đây có thể tìm thấy ở một số nơi, từ cuốn sách tuyệt vời của Vicki Mackenzie, Sự Tái Sanh của Hài đồng Lama, và phụ trương của Tạp chí Trí Huệ, cho đến sự giới thiệu, lời mở đầu, lời tựa của những tác phẩm xuất bản trước của Ngài : Năng lực của Trí huệGiới thiệu về Tantra. Adèle Hulse đang viết một tiểu sử chính thức cho nhà xuất bản Trí Huệ.

Nhưng có lẽ sự mô tả hùng biện nhất về những phẩm tính phi thường của Lama Yeshe là của Lama Thubten Zopa Rinpoche. Ngài là đệ tử chính và tâm đắc, trong quyển “Lòng từ ái của Đạo Sư” và trong bài điếu văn của Ngài Zopa đọc sau khi Lama Yeshe viên tịch năm 1984.

Lama Yeshe không chỉ là Vị Kim Cương Sư siêu tuyệt mà còn là người gợi ý ra xây dựng Hội Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa (FPMT), một tổ chức thế giới của những trung tâm giáo lýthiền định Phật giáo cả nông thôn lẫn thành thị, những tu viện, những nơi nhập thất, những trung tâm chữa bệnh, và những nhà xuất bản trên khắp thế giới.

Lần đầu tiên tôi gặp Lama năm 1972, trong lúc tham dự khóa thiền định Kopan thứ ba, khóa đầu tiên của tôi. Việc giảng dạy được ngài Zopa đảm nhiệm, và hầu hết năm mươi học sinh đang theo học đều không biết có vị Lama khác ở Kopan. Có ai đó biết tôi là thầy thuốc và khoảng một tuần vào khóa học, tôi được mời đi thăm bệnh một Lama bị nhiễm trùng ở chân. Tôi được dẫn vòng ra sau một ngôi nhà cũ kỹ ở Kopan (bây giờ tiếc thay ngôi nhà đã hư hoại), ở đó có một vị tu sĩ Tây Tạng khiêm tốn với nụ cười rộng mở, hết lời cảm ơn dù tôi chưa làm gì. Nhưng ngài biết điều tôi không biết, rằng cuộc đời tôi đã bắt đầu thay đổi.

Khi mũi chích penicillin đầu tiên của tôi bắn vọt ra khắp phòng thay vì vào mông của Ngài, với một nụ cười, Ngài mời tôi trở lại : “Bạn thân mến, ngày mai cố gắng làm lại nhé.” Vì thế, tôi đến gặp Ngài mỗi ngày vào tuần sau, các bạn đạo của tôi bắt đầu loan truyền rằng nghề của tôi đã dở đi. Mười tám tháng sau, khóa học ở Kopan nổi tiếng đến bây giờ, tổ chức hai lần trong năm đã thu hút trên hai trăm người, đa số họ đều là người phương Tây trẻ đi du lịch Ấn Độ và Nepal. Hai mươi người chúng tôi được nguồn cảm hứng từ tấm gương vô song của Thầy chúng tôi, đã thọ giới làm Tăng, Ni. Vào mùa xuân năm 1974, đúng sau khóa học Kopan thứ sáu sau vài năm giảng dạy kinh điển về con đường tiệm đạo giác ngộ, Lama cảm thấy chúng tôi đã sẵn sàng cho Tantra. Ngài chọn sự thực hành tịnh hóa Heruka Vajrasattva và biên tập cho chúng tôi sadhana hay phương pháp thành tựu từ Tantra Chakrasamvara. Rồi Ngài ban cho năm buổi thuyết pháp bình giảng về sadhana và một bài giảng rộng về việc nhập thất thiền định như thế nào.

Quyển sách này bao gồm những bài giảng của Lama về thực hành Vajrasattva, những giáo huấn chi tiết về ẩn tu chủ yếu căn cứ trên sự giảng dạy lúc đầu, sáu bài giảng đặc biệt, phần lớn được đưa ra như sự mở đầu giới thiệu vào những buổi lễ quán đảnh Heruka Vajrasattva tại những trung tâm FPMT trên khắp thế giới, và hai bình giảng về Heruka Vajrasattva Tsok do chính Ngài biên soạn năm 1982. Trong phần phụ lục sẽ thấy sadhana và bản văn tsok bằng Tạng ngữ, phiên âm Tây Tạng và tiếng Anh để dễ tán tụng, và một phương pháp cúng cho những hồn linh địa phương, shi-dak torma. Nhưng Lama đã nhấn mạnh trong phần giới thiệu “để thực hành Heruka Vajrasattva bạn cần phải được làm lễ truyền pháp tantra yoga tối thượnggiáo huấn từ một vị Lama đầy đủ phẩm tính.”

Trong tính cách này, người đọc cũng cần chú ý rằng vì những giảng dạy trong sách này đến từ truyền thống khẩu truyền và nhắm vào những hành giả. Phạn ngữ và Tạng ngữ không được diễn đạt theo cách học giả mà là cách phát âm đúng và không có các dấu phụ.

Một điểm khác là trong những bài giảng, Lama Yeshe thường dùng từ “người phương Tây” để chỉ những thính giả vào lúc đó và không được loại bỏ. Tuy nhiên, những đọc giả không phải người phương Tây không nên cảm thấy bị bỏ rơi vì lòng bi và trí huệ của Lama chiếu sáng mười phương hoàn toàn không thiên vị.

Những bài viết của Lama năm 1974 đã được các Tăng Ni của Viện Đại Thừa Quốc Tế ghi âm và sao chép. Trước tiên cho công việc nhập thấttu hành Heruka Vajrasattva của họ vào mùa xuân 1974. Tôi đã dành thời gian hơn bốn tháng cho bản viết tay tại hang động Charok ở Lawudo, không cách xa Lawudo Gompa nơi ẩn tu của Lama Lawudo, là tiền kiếp của Lama Zopa Rinpoche. Đây là đỉnh cao của cuộc đời tôi, và tôi khuyến khích cho mọi người việc nhập thất theo những bình giảng của Lama. Và khoảng chừng mười huynh đệ kim cương lên xuống núi Lawudo ở quanh tôi, cùng làm một sự thực hành, là một cảm hứng lớn lao. Đó là thời gian tuyệt vời.

Cùng lúc ấy, khoảng chừng hai mươi thiền giả khai mạc nhóm nhập thất cùng với FPMT tại Kopan Gompa và một nhóm nhập thất ba tháng Heruka Vajrasattva vẫn được hướng dẫn hàng năm tại Trung tâm Nhập thất Tushita, phía trên Dharamsala Ấn Độ, và trung tâm Milarepa, Vermont USA và một số không thường xuyên thuộc các trung tâm khác.

Sau nhập thất, Lama làm việc với Thượng tọa Marcels Bertel và Thượng tọa Yeshe Kharda để bổ sung cho sadhana và bản bình giải. Trong hầu hết hai mươi năm, nhiều hành giả nhập thất Heruka Vajrasattva đã dựa vào ấn bản tuyệt vời của Marcels, và sau đó được in lại trong dạng chép tay nhiều lần bởi hai tu viện Kopan và Trí Huệ. Nó là căn bản của phần 1 và 2 trong quyển sách này.

Tôi bắt đầu làm việc về quyển “Con đường Tantra về sự tịnh hóa” sau khi Lama Yeshe cử tôi làm giám đốc nhà xuất bản Trí Huệ vào năm 1981. Sau những lời giảng dạy của Lama về Sáu Yoga của Naropa tại viện Lama Tsong Khapa vào đầu năm 1983, bảy người chúng tôi như được mô tả chi tiết bởi Jon Landaw trong quyển Giới thiệu về Tantra cùng nhau nhập thất biên soạn gần Cécina, Italy, làm việc với một số những lời giảng khác của các Lama để xuất bản. Trong nhiều chuyện khác, chúng tôi được biết Lama thật độc đáo trong việc sử dụng cực kỳ sáng tạo tiếng Anh như nhà nhập thất Robin Bretano tinh tế nhận xét, đến nỗi sự biên tập lời ngài cũng giống như chuyển dịch. Sự khó khăn do việc biên soạn những lời giảng của Lama là đáp ứng đúng với ý nghĩa của Ngài, văn phạm chính xác, âm điệu giống như Lama. Tất cả chúng tôi đã làm hết khả năng với những khó khăn này.

Tôi đọc bản phác thảo của bình giảng chính cho Lama nghe tại Trung tâm nhập thất Tushita vào tháng 4 năm 1983 và Ngài đã bổ sung nhiều sửa chữa. Tôi cất giữ những băng ghi âm về những buổi gặp đó cũng như ghi nhớ tất cả những lúc tôi ở với Lama. Tất cả mọi đề nghị của Ngài đều được kết hợp vào trong sách này.

Tôi biên soạn những lời dạy sau – những bài giảng Heruka Vajrasattva không thường xuyên của Lama và những bài viết của Ngài về cúng dường Heruka Vajrasattva Tsok năm 1993 tại Kinglake, Victoria, Australia.

Lama Yeshe là một người ủng hộ lớn lao cho việc thực hành tịnh hóa Heruka Vajrasattva. Một lần ngài bày tỏ hy vọng rằng tất cả đệ tử của Ngài dành thời gian nhập thất tối thiểu một lần trước khi chết. Sau khi Lama ra đi, theo như ước mong của Ngài, một nhóm đệ tử duy trì thời khóa suốt ngày đêm việc thực hành Heruka Vajrasattva trong vòng mười hai tháng tại tu viện Kopan, và những giai đoạn ngắn hơn tại Trung tâm nhập thất Osel Ling, Spai và Mahamudra (Đại Ấn) ở New Zealand.

Từ lòng đại bi của Lama và phước nguyện nhỏ bé của những đệ tử, vào ngày 12 tháng 2 năm 1985 Ngài đã trở lại với thế gian này như là Lama Tenzin Osel Rinpoche, và chúng tôi cầu nguyện Ngài một lần nữa giảng dạy việc thực hành Heruka Vajrasattva cho những đệ tử của Ngài và có lẽ, sẽ sửa chữa những lỗi lầm có trong sách này.

Lời cảm tạ

“Cảm ơn Rinpoche vì ngài đã thay đổi cuộc đời con.” Tôi đã nói với Lama Zopa Rinpoche vào lúc kết thúc khóa thiền định Kopan đầu tiên của tôi (Ngài chỉ cười). Tất cả chúng tôi trong FPMT tiếp tục cảm ơn Lama Zopa Rinpoche, ngọn hải đăng sáng rỡ của trí huệđại bi của chúng tôi và là một khuôn mẫu sống của những chứng ngộ. Khi Lama Yeshe viên tịch, Rinpoche duy trì liên tục việc phát triển của FPMT cho đến nay gồm hơn bảy mươi trung tâm ở mười bảy nước trên khắp thế giới, trong lúc tiếp tục dẫn dắt tâm linh những đệ tử ngày càng phát triển trên khắp thế giới bằng cả cách ứng xử vô song và những lời dạy thâm sâu của Ngài.

Dự án này và nhiều dự án khác đã và sẽ làm lợi lạc ngay cả trong tương lai xa hơn, từ công việc đặc biệt do Peter và Nicole Kedge và Thượng tọa Alisa Cameron trong xây dựngduy trì Tài Liệu Trí Huệ về những lời dạy của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche. Mỏ kim cương được vi tính hóa này sẽ tiếp tục sản sinh những lời dạy vì lợi ích chúng sanh trong một thời gian dài và với tư cách là nhà xuất bản những lời dạy này, chúng tôi đặc biệt biết ơn công việc thiện nguyện của họ.

Không cần phải liệt kê những gì họ đã giúp đỡ, vì họ đã làm quá nhiều. Tôi cũng cám ơn Ven. Geshe Lama Lhudrub Rigsel, Viện trưởng tu viện Kopan, Ven. Marcel Petels, Ven. Yeshe Khardo, Ven. Thubten Peno, Ven. Thubten Wongmo, Ursula Bernis, Ven. Ann McNeil, Ven. Max Matthew, Ven. Ronina Courtin, Jonathan Landaw, Ven. Roger Kunsang, Tim McNeil, Thubten Chošdak, Piero Cerri, những thành viên biên soạn nhập thất của Cecina Mare, Mary Moffat, Gookie Claire, Ritter, Beatrice Ribush mẹ tôi, Dorian và Alison Ribush, Wendy Cook, Ven. Geshe Tsulga (Tsultrim Chopel), David Molk, Ven. George Churinoff và Vincent Montenegro. Tôi cũng cám ơn FPMT dã cung cấp những lời dạy cho quyển sách này và những đệ tử thiện nguyện đã biên soạn lại những băng ghi âm. Chúng tôi đặc biệt cám ơn Peter Iseli đã trang hoàng bìa sách bằng bức họa Heruka Vajrasattva thật đẹp, chuyển từ mẫu vẽ đẹp đẽ của Lisa Sawlit.

 Nicolas Ribush


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33160)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6536)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11254)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30392)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7967)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12168)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12238)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11584)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12792)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34730)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52251)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10497)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10699)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10458)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13065)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16250)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21823)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9606)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10381)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16217)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16515)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13843)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13792)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14308)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9185)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11735)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11251)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16287)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12686)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15653)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12001)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12617)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14986)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11952)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13121)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14522)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20669)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13207)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10931)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20683)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14342)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20360)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17647)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14007)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31851)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12011)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant