Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vầng Trăng Lăng Già

27 Tháng Giêng 202121:05(Xem: 4230)
Vầng Trăng Lăng Già

Vầng Trăng Lăng Già

 
Vầng Trăng Lăng Già

Nhìn xuyên qua khung cửa sổ, ngoài trời lồng lộng ánh trăng xinh vừa tròn mười sáu. Ánh trăng soi rọi trên khắp cả núi đồi. Trên cả một thung lũng rộng lớn, tràn ngập ánh trăng. Tu Viện đêm nay chìm trong ánh trăng mơ. Ánh trăng huyền diệu. Bóng Sư già ngồi bên trong khung cửa hẹp tụng lời Kinh Lăng Già:

"Thế gian ly sanh diệt

Du như hư không hoa

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm."

Dịch:

Thế gian lìa khỏi sự sanh và diệt

Bởi vì nó giống hoa đốm giữa hư không.

Dùng cái trí mà thấy không có cái có và không

Để sinh khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Nhưng nghiệt nỗi, bên trong khung cửa hẹp còn có bóng Sư già gõ mõ tụng từng lời Kinh, nghe trầm thoát làm sao, thiền vị làm sao, thì làm sao để mà lìa bỏ sự sanh, sự diệt. Vì mỗi lời Kinh vang lên nhịp đều theo tiếng mõ, thì lúc ấy là sự sinh hiện có, rồi cũng ngay nơi lời kinh tiếng mõ ấy trôi qua về quá khứ tức diệt. Và cứ thế sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, miên man vô cùng. Ngày nào cũng vậy, nơi chốn thiền môn kia, lời kinh tụng cứ mãi sinh rồi diệt theo điệu trầm hùng an nhiên.

Ngoài kia, bầu trời thái hư, trăng vẫn sáng, cảnh vật được soi tỏ làm rạng rỡ từng lá hoa, từng phiến đá, mà có lắm khi lúc ẩn, lúc hiện, chợt tỏ chợt mờ, bao nhiêu hình ảnh diệt sinh, sinh diệt vô cùng...

"Nhất thiết pháp như huyễn

Viễn ly ư tâm thức

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm"

Dịch:

Tất cả các pháp đều như huyễn

Xa lìa từ nơi tâm thức.

Dùng cái trí mà thấy chẳng có cái có và không

Để phát khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Sư già ngồi tụng kinh như huyễn, âm ba trầm vọng lời kinh như huyễn, một chuỗi huyễn không dừng nơi đâu. Thân là sắc uẩn. Âm thanh là thanh uẩn, chợt có rồi không, chợt hiện rồi biến. Thế gian vô thường, phải xa lìa hết để phát khởi lòng cho vui, cứu khổ lớn.

Vầng trăng mười sáu dường như bất động, lững lơ giữa trời không. Nhưng trong cái bất động đã hàm tàng bao cái động, cái động đó là trăng tàn, trăng khuyết, trăng non, trăng lưỡi liềm mỏng manh như làn chỉ, làn tơ, làn sương khói. Chính vậy mà ánh trăng sáng vô cùng, vô tận, khắp trên mặt đất này.

"Viễn ly ư đoạn thường

Thế gian hằng như mộng

Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm."

Dịch:

Xa rời hai lãnh vực đoạn và thường

Thế gian luôn giống như mộng

Dùng cái trí mà thấy chẳng có cái có và không

Để sinh khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Tiếng chuông ngân dài, lời kinh thiền vị, ấm áp vô cùng. Tiếng mõ như thủa nào, từ đầu đến bây giờ vẫn thế. Đâu có dứt. Đâu có lại bắt đầu mà cho là như mộng, mà cho là đoạn thường, thôi hãy quên đi, buông bỏ đi để là đem tâm cứu khổ, làm vui cho đời, cho trần thế hôm nay an lạc. Như vầng trăng kia, vầng trăng bản môn, luôn hiện có giữa trời, không mờ! Không tỏ! Không rõ! Không mơ! Làm sáng cả đất trời dù mù khơi sương tuyết!

"Tri nhơn pháp vô ngã

Phiền não cập nhĩ diệm

Thường thanh tịnh vô tướng

Nhi hưng đại bi tâm."

Dịch:

Biết người và pháp đều vô ngã

Phiền não và các sở tri chướng

Thường là thanh tịnhvô tướng

Để sinh khởi cái tâm cứu khổ lớn.

Sư già ngồi tụng kinh vô ngã. Ánh trăng sáng ngoài kia, ngoài khung cửa hẹp vô ngã. Cả hai đều không có chủ thể. Cả hai đều do duyên sinh, hình thành nên chóng vỡ tan. Người vỡ tan. Trăng vỡ tan. Cả hai đều vỡ tan. Nhơn pháp câu không. Hãy liễu tri như thế. Liễu tri như âm thanh của lời kinh siêu thoát. Liễu tri như ánh trăng Tích môn soi sáng, tỏ rạng khắp chốn sông hồ. Dù nước đục nước trong, ánh trăng Tích môn luôn hiện hữu. Trong, đục, cạn, sâu vì chướng duyên để tâm sai biệt, chứ thật lẽ Chân nhưthường hằng, thanh tịnh, từ đó mà hưng khởi cái tâm đại bi cho đời bớt khổ, cho người thêm vui.

"Nhứt thiết vô Niết Bàn

Vô hữu Niết Bàn Phật

Vô hữu Phật Niết Bàn

Viễn ly giác sở giác

Nhược hữu nhược vô hữu

Thị nhị tất câu ly."

Dịch:

Tất cả đều không có Niết Bàn

Cũng không có Phật nhập Niết Bàn

Không có Niết Bàn của Phật

Xa rời cái giác và cái sở giác

Dù có hay dù cả không có

Hai lãnh vực ấy đều phải xa rời.

Sư già ngồi tụng kinh, lòng thành khẩn, thanh tịnh ước muốn nhập Niết Bàn và cầu mong có Niết Bàn để nhập. Nhưng khi nghe bài kệ này, lòng Sư hoát nhiên đại ngộ. Lời kinh tụng càng lớn. Tiếng mõ đánh càng to, âm vang cả chánh điện chùa, làm thức tỉnh bao lá hoa đang phơi mình dưới ánh trăng huyền diệu, tịch lặng ngoài kia. Ngộ cái ngộ của tự thân tâm mà không còn dính mắc cái giác và cái được giác như mình và người, Sư và trăng đều cách biệt, phân li, tơ hào.

"Mâu ni tịch tịnh quán

Thị tắc viễn ly sanh

Thị danh vi bất thủ

Kim thế hậu thế tịnh."

Dịch:

Quán tịch lặng như nhiên

Làm cho sự xa rời dấy khởi

Quán như vậy gọi là chẳng giữ lấy

Đời này, đời sau cả hai đều thanh tịnh.

Trăng sáng là trăng sáng. Sư già tụng kinhtụng kinh. Tụng kinh, trăng sáng phải thấy rõ không lầm. Thấy như Đại viên cảnh trí. Thấy như Bình đẳng tánh trí, chân thật bất hư. Không mộng. Không ảo. Nhất như. Tuyệt cùng.

Cửa Chánh điện chùa khép lại từ lâu. Ánh đèn bạch lạp còn cháy leo lắt, làm một không gian u tịch lặng tờ. Phật tọa trên đài sen như thường hằng, bất động. Vầng trăng Lăng Già vẫn sáng như nhiên. Tâm, vật bất phân. Phật, trăng như thị. Trăng Bản môn, Tích môn vẫn là trăng. Phật pháp thân, báo thân vẫn là Phật. Phật, trăng bình đẳng chân như.

Chùa Phật Đà, ngày 27 tháng 01 năm 2021

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 100)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 131)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 139)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 148)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 182)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 229)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 217)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 230)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 222)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 259)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 246)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 209)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 156)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 185)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 208)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 293)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 303)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 385)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 358)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 339)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 349)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 607)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 574)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 849)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 444)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 679)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 497)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 485)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 385)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 503)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 465)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 651)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 448)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 851)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 573)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 968)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 680)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 573)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 873)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 545)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 624)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 534)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 708)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1019)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1198)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant