Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngoại Giao Xá Lợi Sự Hồi Sinh Kỳ Diệu Của Tinh Thần Huyền Trang

09 Tháng Ba 202119:22(Xem: 4477)
Ngoại Giao Xá Lợi Sự Hồi Sinh Kỳ Diệu Của Tinh Thần Huyền Trang
Ngoại Giao Xá Lợi Sự Hồi Sinh Kỳ Diệu Của Tinh Thần Huyền Trang

Thích Thanh Tâm

hoa sen 1

Mở đầu

Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng - với cuộc hành hương lịch sử từ Trung Quốc đến Ấn Độ trong thế kỷ thứ VII đã được mô phỏng lại bằng văn bản, ảnh tượng và phim kịch khoảng hơn một nghìn năm. Vào đầu thế kỷ XX, các bản dịch và chú giải của Ngài về Pháp tướng Duy thức tông được hồi sinh sau hơn một thiên niên kỷ bị lãng quên vì không còn được biệt đãi ngay sau khi viên tịch.[1] Chỉ vài thập kỷ sau khi di sản của Ngài bị chìm vào quên lãng thì những dấu tích vật lý (xá lợi xương đỉnh đầu) đã mất dấu từ ​​lâu lại được Takamori Takasuke khai quật, vào ngày 23 tháng 12 năm 1942.[2]

Từ khi được khai quật, xá lợi xương đỉnh đầu của Ngài đã tái hiện và kéo dài cuộc sống; được phân chia nhiều lần, và mỗi lần đều có lịch sử của nó. Bởi vì cuộc đờidi sản văn học của Ngài đã để lại dấu ấn sâu sắc đối với các nền văn hóa Phật giáo ở Châu Á, nên những huyền tích lưu lại đã được các nhóm khác nhau tìm kiếm - cả tôn giáo lẫn thế tục, quốc gia và xuyên quốc gia – nhằm phục vụ nhiều mục đích chương trình nghị sự. Những mảnh vỡ được cho là từ mảnh xương đỉnh đầu ấy hiện đang tôn thờ ở Trung Quốc đại lục (bốn địa điểm), Đài Loan (ba), Nhật Bản (năm) và Ấn Độ (một).

1. Cơ sở lý thuyết

1.1 Ngoại giao là gì

1.1.1 Khái niệm

Ngoại giao là việc thực hiện các mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền thông qua liên lạc, thương lượng, gây ảnh hưởng cũng như điều chỉnh những khác biệt. Hoạt động ngoại giao đã xuất hiện từ lâu đời ở nhiều nền văn minh trên thế giới, tiêu biểu như Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại. Do đó, ngoại giao là “một khoa học mang tính tổng hợp, một nghệ thuật của những khả năng, là hoạt động của các cơ quan làm công tác đối ngoại và các đại diệnthẩm quyền làm công tác đối ngoại của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền hạn của quốc gia, dân tộc ở trong nước và trên thế giới, góp phần giải quyết các vấn đề quốc tế chung, bằng con đường đàm phán vá các hình thức hoà bình khác.”[3]

1.1.2 Đặc điểm

Thứ nhất, ngoại giao hoạt động như cỗ máy mà qua đó quốc gia có thể tạo nên ảnh hưởngthể hiện sự quan tâm đối với bên ngoài; đồng thời, giúp điều hoà các lợi ích quốc gia. Nghĩa là, ngoại giao giúp triển khai các mục tiêu cụ thể của quốc gia song song việc đảm bảo trật tự thế giới, trở thành công cụ để quốc gia đạt được lợi ích.

Thứ hai, các nhà ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai đường lối và chính sách đối ngoại. Nghĩa là, nhà ngoại giao phải nắm vững chính sách đối ngoại, có kiến thức và kĩ năng cần thiết để tiến hành hiệu quả các nghiệp vụ và đạt được các mục tiêu đối ngoại.

Thứ ba, thông thường ngoại giao là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách về quan hệ đối ngoại ở cả trong và ngoài nước. Cơ quan đại điện ngoại giao ở nước ngoài có nhiệm vụ thu thập thông tin tại nước sở tại về tình hình kinh tế, chính trị, về các hoạt động và quan hệ giữa chính quyền nước sở tại với bên ngoài nhằm có những đánh giá, phân tích và dự báo các vấn đề phát sinh. Như vậy có thể so sánh các cơ quan đại diện ngoại giao như tai và mắt của Chính phủ nước cử đại diện, và với khả năng trên họ góp phần vào việc điều chỉnh và phát triển chính sách đối ngoại của quốc gia.[4]

1.2 Thế nào là xá lợi

1.2.1 Khái niệm

Xá lợi (舍利, śarīra)[5] là phần di cốt còn lại sau khi thiêu; là phần tinh thể còn lưu lại sau khi trà tỳ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói riêng; của các bậc giác ngộ, trong đó có các bậc cao tăng đắc đạo nói chung. Nói đến những giá trị nội hàm của xá-lợi, cần biết rằng, xá lợi không phải là phần tro cốt bình thường luôn luôn có sau mọi đám hỏa thiêu mà chỉ xuất hiện ở những người có sự tu tập tinh tấn và có sự đạt ngộ trên con đường tu tậpKinh Kim Quang Minh nói, “xá-lợi này là kết tinh của sự huân tu giới định tuệ, rất khó có được, là phước điền tối thượng.”[6]

Cho nên, vượt lên trên quan niệm đời thường, xá lợi được xông ướp bởi giới định tuệ - ba đặc tính hoạt dụng tượng trưng cho một bậc Giác ngộ đang còn sống.[7] Vì thế, lễ kính xá lợi cũng giống như lễ kính một bậc Giác ngộ đang tại thế; từ đó, trở thành đối tượng quy kính thay cho sự hiện diện của đức Phật một khi ngài Niết bàn.

1.2.2 Phân loại

Xá lợi được chia thành hai loại: xá lợi sinh thân (dhātu-śārīra) và xá lợi pháp thân (dharma-śārīratương ứng với hai loại thân của Phật. Xá lợi sinh thân là xá-lợi từ thân thể của Phật hoặc người tu hành đắc đạo sau khi viên tịch. Xá lợi sinh thân gồm có xá lợi toàn thân (như hai vị thiền sư ở chùa Đậu - Việt Nam) và xá lợi toái thân (như các loại xá-lợi tóc, răng, xương, máu, thịt…), tức các phần còn lại sau khi trà-tỳ.

Song song với xu hướng phụng thờ xá lợi sinh thân của Phật, các truyền thống Phật giáo cũng đã xem giáo pháp của Phật là Pháp thân của Ngài mà hình thành khái niệm xá lợi Pháp thân. Khác với xá lợi sinh thân thuộc loại vật chất cụ thể, xá lợi Pháp thân thuộc tinh thầnÝ tưởng hình thành xá lợi Pháp thân bắt nguồn từ những lời dạy của Phật trong một số kinh điển, như Kinh Tương Ưng Bộ (Saṃyutta Nikāya), “Ai thấy Pháp, người ấy thấy ta; ai thấy ta, người ấy thấy Pháp.[8]

2. Khai quật Xá lợi Ngài Huyền Trang

Sau khi trở về từ Ấn Độ năm 645, Ngài Huyền Trang chủ trì các hội dịch Kinh sách tại chùa Hoằng Phúc và sau đó tại chùa Từ ân, cả hai đều ở thủ đô Trường An thời nhà Đường (Tây An ngày nay). Năm năm cuối đời, Ngài sống tại chùa Ngọc Hoa, khoảng 45 dặm về phía Bắc Trường An. Sau khi qua đời năm 664, thi hài được chuyển về thủ đô và chôn cất ở Bạch Lộc Nguyên, vùng ngoại ô phía đông Trường An. Về sau vua Đường Cao Tông[9] di dời bảo tháp sang địa điểm khác, cách phía Nam thành phố vài dặm, gần chân dãy núi Chung Nam.[10] Mặc dù không ai biết chắc chắn, ngôi tháp và ngôi chùa Hưng Giáo được dựng lên nơi chôn cất thi hài, có thể đã bị phá hủy hai trăm năm về sau, khi cuộc nổi loạn khét tiếng của Hoàng Sào bao vây và chiếm đóng Trường An từ năm 880 đến 883.[11] Theo dòng chữ được khắc bên cạnh chiếc quan tài đá ở Nam Kinh vào năm 1027 và vị trí địa lý thành phố Nam Kinh 13 thế kỷ sau, trong cuộc nổi loạn của Hoàng Sào, thi hài của Ngài Huyền Trang đã được bí mật di chuyển từ chùa Hưng Giáo đến chùa Tử Các, một quần thể nhỏ nằm sâu trong dãy núi Chung Nam. Hài cốt nằm ở đó cho đến khi Pháp sư Khả Chánh, vào một thế kỷ sau, từ chùa Trường Can tình cờ thấy di tích đổ nát của chùa Tử Các năm 988. Theo như tường trình, Ngài Khả Chánh đã nhặt được một mảnh xương đỉnh đầu của Ngài Huyền Trang, mang về Nam Kinh và chôn trong bảo tháp trên ngọn đồi ở phía đông tu viện.

Trường Can là một trong những ngôi chùa Phật giáo nổi bật nhất ở Nam Kinh, nổi tiếng với bảo tháp tự nhận lưu giữ một phần xá lợi của Đức Phật, một mảnh xá lợi đỉnh đầu được phân bố bởi Vua Aśoka.[12] Vào năm 1386, mộ phần của Ngài Huyền Trang nằm bên cạnh Thiền đường trên ngọn đồi phía nam quần thể chùa.[13] Ngoại trừ Thiền đường nằm phía trước bảo tháp của Ngài, toàn bộ ngôi chùa đã bị san bằng vào giữa thế kỷ XIX, khi Nam Kinh là tâm điểm của việc đập phá Thánh tượng của phong trào Thái Bình Thiên quốc. Tầm quan trọng của địa điểm này dần dần bị lãng quên, mãi cho đến khi quân đội Nhật đào bới ngọn đồi phía nam vào mùa đông năm 1942 để xây dựng đền thờ Thần đạo.

Sau nhiều thế kỷ bị ẩn khuất dưới lòng đất, nay xá lợi được khai quật đã liên tục tạo nên những tiếng vang lớn. Theo lời khắc nguyên ủy ở bảo tháp núi Tiểu Cửu Hoa, vào ngày 28 tháng 12 năm 1943, gần một tháng trước khi xá lợi được phụng thờ trong bảo tháp mới, lễ phân chia được tổ chức tại Nam Kinh và xá lợi được tán nhỏ. Hai phần giữ lại Nam Kinh, một phần gửi đến Bắc Kinh để “ánh sáng mầu nhiệm của xá lợi thiêng liêng có thể soi chiếu cả Nam Bắc.[14] Về hai mảnh xá lợiNam Kinh, một được lưu giữ trong bảo tháp tại núi Tiểu Cửu Hoa; mảnh còn lại được gửi cho Sở Di tích Văn hóa Nam Kinh. Mảnh trước hiện vẫn còn trong khu di tích, nhưng mảnh sau lại tồn tại trong sự thay đổi, chuyển dịch.

Năm 1949, mảnh xá lợi sau được chuyển từ Sở Di tích Văn hóa sang Bảo tàng Nam Kinh, nơi được trưng bày cùng với các đồng tiền cổ, tranh vẽ, và cùng với những thuật họa sau này về sự tiến hóa của nhân loại.[15] Năm 1953, theo chỉ thị của Hiệp hội Phật giáo Nam Kinh[16] xá lợi của Ngài Huyền Trang được chuyển đến chùa Tỳ Lô, nơi mà Đảng Cộng sản Trung quốc chủ trương như một tu viện trưng bày nhằm phục vụ lợi ích cho những cuộc viếng thăm của chức sắc nước ngoài. Động thái này được thực hiện theo sau sự thành lập Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc vào đầu năm đó, với nhiệm vụ tổ chức cho những tín đồ Phật giáo tham gia vào “các phong trào vì lợi ích của quê hương.”[17] Mười năm sau, 1963, trong suốt thời kỳ xã hội tương đối yên ổn giữa thời kỳ Đại nhảy vọt và cuộc Cách mạng văn hóa, mảnh xá lợi lại được di chuyển lần nữa, đến chùa Thê Hà, một tu viện có bề dày lịch sử, rộng lớn nằm ở vùng đồi về phía Đông Bắc Nam Kinh. Vào thời điểm đó, chùa Thê Hà cùng với các địa điểm khác ở Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản đang chuẩn bị tổ chức một sự kiện quốc tế kỷ niệm mười ba thế kỷ ngày Pháp sư Huyền Trang viên tịch.[18] Những sự kiệnTrung Quốc được tổ chức một phần để minh chứng sức sống được tiếp tục của Phật giáo tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chính phủ hăm hở muốn xóa bỏ tin đồn là chế độ thù địch với tôn giáo và làm nổi bật văn hóa Phật giáo Trung Quốc nhằm chia sẻ với các đồng minh chính trị và kinh tế.

Tuy nhiên, những quan ngại quốc tế về vấn đề tôn giáo ở Trung Quốc đã được chứng minh rõ ràng. Mao Trạch Đông phát động Cách mạng Văn hóa vào năm 1966, chỉ chỉ hai năm sau lễ kỷ niệm Huyền TrangNam Kinh, Tây An và Bắc Kinh. Hội Phật giáo Nam Kinh e ngại, xá lợi sẽ bị tịch thu hoặc phá hủy trong các cuộc tấn công hiểm độc vào các tu viện Phật giáo ngày càng gia tăng nên xá lợi được chuyển từ chùa Thê Hà sang Ban quản lý văn hóa Nam Kinh để giữ an toàn.

Cuộc cách mạng văn hóa kéo dài đến năm 1976, nhưng vào năm 1973, xá lợi của Pháp sư Huyền Trang đã được đưa ra khỏi nhà kho của chính phủ và được phụng thờ tại chùa Linh Cốc vừa mới được phục dựng tại Nam Kinh, một ngôi chùa giản dị dù đã buông lỏng chính trị, nằm gần bảo tháp của Ngài trên núi Tiểu Cửu Hoa.[19] Với sự tấn công của Cách mạng Văn hóa, chùa Linh Cốc không còn hoạt động như một ngôi chùa Phật giáo; các nhà sư bị bắt và đưa đến các trại cải tạo, nhiều gian nhà và biểu tượng của ngôi chùa bị phá hủy, và chi nhánh địa phương của Ủy ban Cách mạng đã chiếm giữ các công trình còn lại. Nhưng vào tháng 5 năm 1973, chỉ bảy tháng sau khi bình thường hóa quan hệ Trung-Nhật, Nhóm giao lưu Phật học Nhật-Trung[20] đã được lên kế hoạch tham quan các địa điểm Phật giáo ở một số thành phố của Trung Quốc.[21] Ngay trước khi đoàn đến Nam Kinh, các viên chức chính phủ đã nhanh chóng hành động và trong khoảng thời gian mười lăm ngày, khôi phục chùa Linh Cốc giống như lúc ban đầu. Ủy ban cách mạng đã được dời đi và các nhà sư được phục chức trở lại. Một bức tượng Phật Dược Sư thời nhà Minh được gửi đến từ Bắc Kinh, và các tủ Kinh được mang về từ chùa Tỳ Lô. Nhà tưởng niệm Giám Chân, một pháp sư Trung Quốc được cho là giới thiệu truyền thống Luật tông đến Nhật Bản - được thiết lập một cách vội vã, và xá lợi của Ngài đã bố trí trong nhà tưởng niệm Huyền Trang mới.[22] Như vậy, chùa Linh Cốc đã được thay đổi nhanh chóng từ trụ sở của Ủy ban Cách mạng Đảng Cộng sản Trung Quốc thành bảo tàng Phật giáo trưng bày gian hàng những mối quan hệ ngoại giao và văn hóa giữa Nhật Bản, Trung QuốcẤn Độ.[23]

Trong cùng thời gian xá lợi Huyền Trang đang di chuyển quanh Nam Kinh, một số mảnh xương đỉnh đầu khác của Ngài đã được di chuyển đến Bắc Kinh. Xá lợi ở Bắc Kinh cuối cùng được chia thành ba phần. Những mảnh vỡ của xá lợi, được biết vẫn còn tồn tạiTrung Quốc, được gửi đến Tứ Xuyên vào năm 1949, vào đêm trước khi Chính quyền tiếp quản Bắc Kinh, và hiện đang được lưu giữ tại tu viện Văn Thù ở thành phố Thành Đô.[24] Một phần thứ hai của xá lợi Bắc Kinh dường như đã bị mất trong thời kì Cách mạng Văn hóa, mặc dù sau đó, một số nguồn tin cho rằng nó được tặng như một món quà cho các nhà sư Tích Lan vào năm 1952.[25] Phần cuối cùng của xá lợi Bắc Kinh, ban đầu được đưa đến Thiên Tân, nhưng sau đó, vào năm 1957, có thể đã được gửi sang cho Ấn Độ.

3. Sự hồi sinh kỳ diệu tinh thần Huyền Trang – một sứ mệnh ngoại giao đặc biệt

Món quà của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về xá lợi Ngài Huyền Trang được gửi tặng cho chính phủ Ấn Độ là một phần của tiến trình ve vãn chính trị lâu dài. Trong suốt những năm 1950, hai nước đã làm việc để tăng cường quan hệ ngoại giao và kinh tế; và vào tháng 6 năm 1954, lần đầu tiên, Chu Ân Lai đã đến thăm Ấn Độ nhằm thúc đẩy một thỏa thuận mới về Năm nguyên tắc chung sống hòa bình.[26] Vào tháng 10 năm đó, một hiệp định thương mại Trung-Ấn được ký kết tại Bắc Kinh và Hiệp hội hữu nghị Trung-Ấn được thành lập ở cả hai nước. Lễ kỷ niệm về văn hóa truyền thống Ấn Độ được Đảng Cộng sản Trung quốc bảo trợ một cách công phu, đã diễn ra sau đó – về những bích họa trong động Ajanta năm 1955, cuộc đờitác phẩm của Kālidāsa năm 1956.[27] Ngoài việc thể hiện sự tôn trọng đối với di sản của Ấn Độ, các quan chức Bắc Kinh còn mong muốn nhấn mạnh đến cội nguồn lịch sử của tình hữu nghị hai nước. Huyền Trang được xem nhưbiểu tượng chuẩn bị sẵn cho sự hàm ơn của Trung Quốc đối với văn hóa Ấn Độ, đồng thời cũng minh họa cho sự khéo léo và sáng kiến ​​tự nhiên của Trung Quốc. Hiển nhiên, đó là tiềm năng tuyên truyền; và vào tháng 11 năm 1955, tờ Ấn Độ thời báo tuyên bố, Trung QuốcẤn Độ đã lên kế hoạch cùng nhau sản xuất bộ phim dựa vào cuộc đời của Huyền Trang.

 Nhà nước Trung Quốc không phải là chính phủ thế tục duy nhất tham gia vào ngoại giao xá lợi trong thời kỳ này. Chính phủ Anh đã trao xá lợi Phật giáo đến Ấn Độ và Tích Lan; chính phủ Tích Lan đã tặng xá lợi cho Việt Nam và Nhật Bản; Chính phủ Pháp tặng xá lợi cho Cambodia; và chính phủ Nepal tặng xá lợi cho Trung Quốc.[28] Nói cách khác, Trung Quốc đã tổ chức một chuyến du hành lớn về xá lợi răng đến Myanmar vào năm 1955.[29] Trong bối cảnh rối ren này, vào tháng 9 và tháng 10 năm 1956, phái đoàn mười một vị Tăng sĩ Phật giáo do Đại sư Bhadant Anand Kausalyayan dẫn đầu viếng thăm Trung Quốc và xin phép lưu giữ một phần hài cốt của Huyền Trang tại Nalanda - trường đại học Phật giáo lâu đời ở miền Bắc Ấn Độ, nơi Ngài đã nghiên cứu trong nhiều năm. Chu Ân Lai đã tặng một phần xá lợi Huyền Trang ở Bắc Kinh, vốn được phụng thờ tại tu viện Đại Bi ở Thiên Tân từ năm 1945 và bổ nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn làm đặc phái viên Trung Quốc.[30] Cùng với xá lợi, Chu Ân Lai đã gửi bản sao các bản dịch của Huyền Trang, một bộ Đại tạng kinh Trung Quốc, cũng như 300 ngàn nhân dân tệ và các kế hoạch chi tiết xây dựng nhà tưởng niệm Huyền Trang theo phong cách truyền thống Trung Quốc.[31] Xá lợi được trao tặng cho Thủ tướng Nehru vào ngày 12 tháng 1 năm 1957 trong lễ kỷ niệm tại tu viện Mahavihara của Nalanda.[32]

Kế hoạch xây dựng nhà tưởng niệm Huyền Trang đã bị gác lại - vì mối quan hệ giữa Trung QuốcẤn Độ không còn thuận lợi khi những tranh chấp lãnh thổ nảy sinh về các khu vực biên giới chung - cho đến khi liên minh Trung-Ấn được hồi sinh vào đầu thế kỷ XXI. Trong thời gian 50 năm chờ đợi, xá lợi của Ngài được lưu giữ trong tháp pha lê nhỏ ở gần Bảo tàng Patna. Vào năm 2006, “Năm hữu nghị Ấn Độ – Trung Quốc”, xá lợi xuất hiện; khi đó, cùng với một số biểu hiện khác được công khai cao độ về những thiện chí tương trợ, thì việc nỗ lực hoàn thành Nhà tưởng niệm đã được đưa lên.[33] Vào tháng Bảy năm đó, một nhóm mười nhà sư Trung QuốcĐài Loan, mang theo một bức tượng Huyền Trang được điêu khắc từ đất sét ở Trung QuốcĐài Loan, rời Tây An đến Ấn Độ để chuẩn bị tham dự lễ khánh thành chính thức, được tổ chức vài tháng sau đó, ngày 12 tháng 2 năm 2007; nhưng họ đã có thể tham quan nhà Tưởng niệm gần như hoàn chỉnh và chiêm ngưỡng bức tượng Huyền Trang có kích thước thật đứng gần lối vào. Tấm bảng trên bệ tượng nêu rõ ý nghĩa toàn cầu về Huyền Trang: “Huyền Trang thuộc về thiên hà của công dân thế giới, có nhiệm vụ to lớn, vì lợi ích của nhân loại, làm sáng tỏ khối lượng lớn siêu phàm về văn minh nhân loại.” Dường như, Ngài Huyền Trang không nhất thiết là người Trung Quốc hay là Tăng sĩ Phật giáo; đơn giản Ngài là một trong những trí thức vĩ đại của thế giới.

Theo một báo cáo được viết bởi nhà sư truyền giáo Nhật Bản Mizuno Baigyō,[34] ngay trước khi xá lợi được niêm phong trong bảo tháp mới, Bộ trưởng Ngoại giao Chử Dân Nghị đã tặng một phần xá lợi cho Phật tử Nhật Bảnđại diện bởi Mizuno Baigyō và nhà sư Kuramochi Shūhō[35] – như một “biểu hiện của lòng biết ơn.”[36] Tuy nhiên, tin tức về món quà không được công khai, cho nên vài ngày sau đó, gia tăng sự nghi ngờ việc phân chia xá lợi trước đó đã không được lên kế hoạch hoặc phê chuẩn chính thức. Những cảm giác này dường như đã được xác nhận bởi viên chức người Nhật Ōta Toyoo,[37] người có mặt khi chia tách xá lợi. Viết vào năm 1974, Ōta nhớ lại, “vào buổi sáng trước nghi lễ hoàn thành bảo tháp lưu giữ xá lợi của Pháp sư Huyền Trang, tôi đến Nam Kinh với một thương nhân khác và thăm Bộ trưởng ngoại giao Chử Dân Nghị. Đại sư Baigyō cũng ở đó, và nói với tôi, đang chuẩn bị chia xá lợi cho Nhật Bản. Tất cả chúng ta phải tham dự buổi lễ này.”[38] Báo cáo của Ōta ám chỉ Mizuno Baigyō đã dàn xếp việc phân chia xá lợi, chứ nếu tin vào cáo buộc của Trung Quốc, việc nhận “món quà” càng giống hành vi trộm cắp. Ngay cả khi Chử Dân Nghị tự do cúng dường xá lợi cho Mizuno, với tư cách là một viên chức đáp ứng nhu cầu mong muốn của các lực lượng chiếm đóng, từ quân đội cho đến chính phủ Nhật Bản, thì hành động của ông khó có thể được coi là đại diện cho ước muốn của người dân Trung Quốc.

Đến Nhật Bản, xá lợi được tôn trí tại chùa Tăng Thượng ở Tokyo, một trong hai ngôi chùa của tổ tiên dòng tộc Tokugawa. Vào năm 1945, trong một nỗ lực để giải cứu xá lợi khỏi nạn bom cháy ở nội thị Tokyo, đầu tiên, nó được chuyển đến tu viện Tam Học của Kuramochi Shūhō, thuộc quận Saitama; và sau đó chuyển đến chùa Từ Ân gần đó, một ngôi chùa mà tình cờ lại trùng tên với tu việnTrường An, nơi mà Pháp sư Huyền Trang thực hiện công việc dịch thuật.

Trong những năm gần đây, chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu quảng bá Ngài Huyền Trang như một công dân tiêu biểugương mẫu. Trong báo chí nhà nước, các đảng viên thường xuyên dẫn chứng “tinh thần Huyền Trang,” một khẩu hiệu bao hàm những phẩm chất như sự tận tụy, dũng cảm, siêng năng và hy sinh. Trong phạm vi quốc tế, Ngài Huyền Trang giống như Đức Khổng Tử, đã trở thành người chuyển tải những ý định tốt nhất của Trung Quốc. Người ta bảo, Ngài Huyền Trang không chỉ chịu nhiều gian khổ vì lợi ích to lớn của quốc gia và kiên trì không mỏi mệt để làm phong phú đời sống trí tuệtinh thần Trung Quốc mà còn nuôi dưỡng mối quan hệ các đối tác quốc tế dựa trên sự giao lưu văn hóa, tôn trọng và làm phong phú lẫn nhau.

Kết luận

Bàn này để cập đến xá lợi của Ngài Huyền Trang dựa vào nền tảng tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc và ngoại giao quốc tế rộng lớn ở châu Á. Kể từ khi nhập Niết Bàn, cách đây 2500 năm, trong việc hỏa táng thi hài và phân chia xá lợi của Đức Phật, từ đó, xá lợi đã đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển và lan tỏa Phật giáo. Sự phân bố huyền thoại về 84.000 viên xá lợi Phật của Vị vua Ấn Độ Aśoka vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên và sự tôn kính của các Hoàng đế Trung Quốc về xương ngón tay của đức Phật suốt triều đại nhà Đường là những ví dụ nổi tiếng. Suốt chuyến hành hương sang Ấn Độ, Ngài đã viếng thăm nhiều địa điểm nơi xá lợi của đức Phật đang được phụng thờ, gồm một ngôi đền ở Haḍḍa, nơi một mảnh xương đỉnh đầu của Đức Phật đang được tôn thờ. Khi trở về Trung Quốc, Ngài mang theo không chỉ hàng trăm bản Kinh Phật mà còn lưu giữ một trăm năm mươi viên xá lợi của Phật.[39] Giờ đây mười ba thế kỷ sau, mọi người tổ chức hành hương để chiêm bái, bày tỏ lòng tôn kính với xá lợi của Ngài Huyền Trang.

Bất chấp những chuyển biến to lớn đã thay đổi châu Á trong suốt một thế kỷ rưỡi vừa qua - hiện đại hóa, toàn cầu hóa, và các cuộc cách mạng kinh tế và chính trị - sức mạnh của xá lợi Phật giáo dường như không bị suy giảm. Trên khắp châu Á, các tín đồ Phật giáo sùng đạo vẫn tiếp tục tôn kính xá lợi của các nhà sư nổi tiếng như những biểu tượng tràn đầy năng lượng lạ thường. Những ngôi chùa phụng thờ những mảnh vỡ xá lợi xương đỉnh đầu của Ngài Huyền Trang thu hút nhiều người chiêm bái, phủ phục quỳ lạy trước xá lợi, cúng dường tịnh tài, đốt hươngdâng hoa quả, và nguyện Ngài gia hộ thân tâm khỏe mạnh, vạn sự hanh thông, thế giới hòa bình. Những gì từng bị tố cáomê tín vào đầu thế kỷ XX, bây giờ được xem là di sản văn hóa vào đầu thế kỷ XXI.

Trung ẩn sơn, Thiệu Long tự, mùa An cư 2564.

Tài liệu tham khảo

1. Aviv, Eyal. 2008. “Differentiating the Pearl from the Fish Eye: Ouyang Jingwu (1871–1943) and the Revival of Scholastic Buddhism.” PhD diss., Harvard University.

2. Baigyō, Mizuno 水野梅曉. “Genzō tō no yurai” 玄奘塔の由来 [The origin of Xuanzang’s stupa]. Shūkyō jihō 3, no. 5 (May 1949). In Sakaida Yukiko 坂井田タ起子, “Genzō Sanzō no hone no yukue—Nihon ni okeru hachikasho no hōan o megutte” 玄奘三蔵の骨の行方—日本における八 ヵ所の奉安をめぐって [The locations of Xuanzang Sanzang’s bones: Eight sites of enshrinement in Japan]. Nihon kindai Bukkyō 17 (May 2010): 84.

3. Chinese Buddhist Association, ed. 1956. Buddhists in New China. Peking: Nationalities Publishing House.

4. Dorothy C, Wong. “The Making of a Saint: Images of Xuanzang in East Asia.” Early Medieval China 8 (2002): 43–98.

5. Ge Zhaoguang 葛兆光, “Zijia baozang de shi’erfude-wan Qing jiuyi Weishi dianji you Riben fanchuan Zhongguo zhi yingxiang” 自家宝藏 的失而复得-晚清久佚唯识典籍由日本反传中国之影响 Recovering our lost treasure - the influence of the return of long-lost Yogācāra texts to China from Japan during the late Qing], Shixue jikan 1 (January 2010): 66–71.

6. Hui-li and Jung-hsi Li. 1995. A Biography of the Tripiṭaka Master of the Great Ci’en Monastery of the Great Tang Dynasty. Berkeley: Numata Center for Buddhist Translation and Research.

7. Học viện quan hệ quốc tế. 2000. Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao. NXB Chính trị Quốc gia.

8. Hồng, Đào Minh – Lê Hồng Hiệp chủ biên. 2018. Thuật ngữ Quan hệ quốc tế. Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật.

9. “India to Gift Sanchi Stupa Replica and Sarnath Buddha to China,” Times of India, April 25, 2010.

10. Kiely, Jan and J. Brooks Jessup, ed. Recovering Buddhism in Modern China. New York: University of Columbia press, 2016.

11. Kim Quang Minh Kinh. Đại 16, số 0663. [金光明經]Hán dịch bởi Tam Tạng Đàm Vô Sấm.

12. Longping, Bai. “Xianjun Meng Wentong xiansheng yu Xuangong de Foyuan” 先君蒙文通先生与奘公的佛缘 [The late Mr. Meng Wentong’s Buddhist affinity with Master (Xuan)zang]. http://hk.plm.org.cn/gnews/20101112/20101112214490.html.

13. Minh Châu, Thích. 1991. Kinh Trường BộĐại Tạng Kinh Việt Nam. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.

14. Nai, Chi 赤耐. 1998. Dangdai Zhongguo de zongjiao gongzuo 当 代中国的宗教工作 [Contemporary China’s religious work]. Beijing: Dangdai Zhongguo chubanshe.

15. Minyi, Chu 褚民誼. “Tang Sanzang da bianjue fashi Xuanzang dinggu ta bei ji” 唐三藏大遍覺法師玄奘頂骨墖碑記 [Stele inscription for the stupa containing the parietal bone of Tang Sanzang Great Universal Awakening Dharma Master Xuanzang]. Song sheng ji, 4–5.

16. “Move to Shift Xuanzang Relics to Nalanda,” Times of India, December 29, 2003.

17. Nedostup, Rebecca. 2010. Superstitious Regimes: Religion and the Politics of Chinese Modernity. Cambridge, Mass.: Harvard University Asia Center.

18. Passin, Herbert. “Sino-Indian Cultural Relations.” China Quarterly 7 (1961): 85–100.

19. Ray, Reginald A. 1999. Buddhist Saints in India: A Study in Buddhist Values and Orientations. New York: Oxford University Press.

20. Reat, N. Ross. 1993. The Śālistamba Sūtra. Delhi: Motilal Banarsidass.

21. Renmin ribao, June 28, 1964, và July 6, 1964.

22. Schopen, Gregory. 1998. “Relic.” In Critical Tems for Religious Studies, edited by Mark C. Taylor, 256-268. Chicago: The University of Chicago.

23. Shōyū, Nukaga 額賀章友. 2003. Nitchū Bukkyō kōryū: Sengo gojūnen shi 日中仏敎交流: 戦後五十年史 [Sino-Japanese Buddhist exchange: A history of the first fifty years after the war]. Tokyo: Ribun shuppan.

24. Strong, John S. 2004. Relics of the Buddha. Princeton, NJ: Princeton University Press.

25. Shufen, Liu. “Xuanzang de zhuihou shinian (655–664): Jianlun zongzhang ernian (669) gaizang shi” 玄奘的最後十年(655–664): 兼論總章二 年(669)改葬事 [Xuanzang’s final ten years (655–664): With a discussion of the reburial event of 669]. Zhonghua wenshi luncong. No. 3 (March 2009): 1–97.

26. Sunderlal. 1952. China Today: An Account of the Indian Goodwill Mission to China, September-October 1951. Allahabad: Hindustani Culture Society.

27. Vaidya, P. L., ed. 1961. Mahāyāna-Sūtra-Saṁgraha. Vol. I. Darbhanga: The Mithila Institute.

28. Werner, Karel. 2013. “The Place of Relic Worship in Buddhism: An Unresolved Controversy?” Buddhist Studies Review 30 (1): 71-87.

29. Welch, Holmes. 1972. Buddhism Under Mao. Cambridge, Mass.: Harvard University Press.

30. Yaoting, Fan 樊耀亭. 1997. Chang’an xingjiao si 长安兴教寺 [Chang’an’s Xingjiao Temple]. Xi’an: Shaanxi renmin chubanshe.

31. Yongquan, Yang 楊永泉 and Chen Ruixin 陳蕊心, eds. 2001. Linggu si zhu 靈谷寺志 [Gazetteer of Linggu Temple]. Nanjing: Jiangsu guji chubanshe.

32. Yunxi, Huang 黃運喜. “Xuanzang Sanzang fashi sheli zhenwei wenti pingyi” 玄奘三藏法師舍利真偽問題評 議 [An evaluation of the authenticity of Dharma Master Xuanzang Sanzang’s relic]. Xuanzang Foxue yanjiu 7 (July 2007): 1–31. 

33. Yukiko, Sakaida 坂井田タ起子. “Genzō Sanzō no hone no yukue—Nihon ni okeru hachikasho no hōan o megutte” 玄奘三蔵の骨の行方—日本における八 ヵ所の奉安をめぐって [The locations of Xuanzang Sanzang’s bones: Eight sites of enshrinement in Japan]. Nihon kindai Bukkyō 17 (May 2010): 84.

34. Zhongde, Wang 王仲德. 1999. Xuangzang yuanji hou 玄奘圆寂後 [After Xuanzang’s death]. Xi’an: Shaanxi renmin chubanshe.

 

 

 

 



[1] Các văn bản gốc của Duy thức tông đã được giới thiệu lại ở Trung Quốc bởi học giả cư sĩ Yang Wenhui (楊文會/Dương Văn Hội, 1837-1911) vào cuối thời Thanh, người đã tìm được bộ sưu tập các văn bản Duy Thức tông từ Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX. Cũng thời gian đó, Huyền Trang được giới thiệu ở Châu Âu qua các bản dịch về chuyến du hành của Ngài, 大唐西域記 [Đại Đường Tây vực kí], đầu tiên ở Pháp dịch bởi Stanislas Julien năm 1857 và sau đó ở Anh dịch bởi Samuel Beal năm 1884. Beal tiếp tục dịch tiểu sử Huyền Trang của Huili năm 1911.

[2] Takamori Takasuke (高森隆介/Cao Sâm Long Giới, mất năm 1954), một sĩ quan chỉ huy binh lính Nhật Bản đóng quân tại Nam Kinh, đang giám sát việc xây dựng đền thờ Thần Inari ngay bên ngoài cổng phía Nam thành phố. Trong khi đào móng xây dựng ngôi đền, người của ông phát hiện huyệt mộ một bảo tháp Phật giáo cũ. Bên trong một chiếc quan tài bằng đá, họ tìm thấy hai chiếc hộp lồng vào nhau, bên ngoài bằng đồng, bên trong bằng bạc. Hộp bên trong chứa một bức tượng Phật bằng vàng nhỏ, vài dụng cụ bằng đồng và gốm, hàng trăm đồng xu và một hạt lúa mì. Một hộp bằng đồng riêng biệt, bọc kín, có một mảnh xương nhỏ, màu nâu xám và đại khái hình chữ nhật. Hai dòng chữ được khắc vào các bức tường của quan tài đá, một dòng ghi niên đại từ thế kỷ thứ XI, dòng kia ghi niên đại thứ XIV, đã khẳng định mảnh xương này là một mảnh xương hộp sọ của Pháp sư nổi tiếng đời Đường Ngài Xuanzang (玄奘/Huyền Trang; 600? - 664). (Theo Jan Kiely and J. Brooks Jessup, 2016, 143.)

[3] Học viện quan hệ quốc tế (2000), Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao, Nxb. Chính trị Quốc gia.

[4] Xem thêm Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp chủ biên (2018), Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.

[5] Theo sự khảo cứu của Schopen, một giáo sư chuyên về các thể loại minh văn Phật Giáo, từ này xuất hiện trong ngữ cảnh Phật Giáo khi ở hình thức số ít (śarīra) có nghĩa là ‘thân thể’ (cả sống cũng như đã chết); ở hình thức số nhiều (śarīrāni) nghĩa là ‘di cốt’ (phần xương còn sót lại sau khi thiêu). Từ xá-lợi đề cập đến ở đây mang nghĩa thứ hai này. Ngoài ra, trong Phạn ngữdhātu (Hán: 駄都/đà-đô: yếu tốthành phần) cũng thường được dùng để chỉ cho xá-lợi với ý nghĩa cái chết kèm theo hỏa thiêu sẽ trả một cơ thể trở về các thành phần của nó. (Schopen, 1998, 257).

[6]  此舍利者是戒定慧之所熏修甚難可得最上福田 (Kim Quang Minh Kinh, Đại 16, số 0663, 354a14-16).

[7] Theo Schopen, “tất cả mọi nguồn tài liệu của Ấn Độ, gồm minh văn, kinh điển, văn chương bác học, đều thống nhất xem xá-lợi là có sự sống.” (Schopen, 1998, 258).

[8] Về vấn đề Pháp thân, có thể xem thêm Kinh Cây Lúa (Śālistamba-sūtra), “Người nào thấy pháp, người ấy thấy Phật.” Hoặc Kinh Thánh Duyên Khởi (Ārya-pratītyasamutpāda-mahāyāna-sūtra), “duyên khởi này là Pháp thân của Như lai, người nào thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy Như lai.

[9] 唐高宗, khoảng 649-683.

[10] Liu Shufen lập luận, Huyền Trang đã bị cuốn vào một loạt các thanh trừng chính trị suốt những năm cuối đời. Cô cho rằng, quyết định khai quật (và như vậy là mạo phạm) hài cốt của ông, là một phần của nỗ lực lớn để làm mất uy tín của Huyền Trang và chối bỏ di sản của ông. Xem Liu Shufen, 2009, 1–97.

[11] Các nhà sư và các ủy viên tài phán, được xem là đại diện của chùa Hưng Giáo khẳng định rằng bảo tháp đó chưa bao giờ bị phá hủy và vẫn còn chứa phần còn lại gần như hoàn chỉnh (trừ mảnh hộp sọ) của Huyền Trang . Họ nói, xương sọ được chuyển cho chùa Tử Các vào thế kỷ thứ chín, nhưng phần xương còn lại của Huyền Trang vẫn không bị phá hoại ở chùa Hưng Giáo. Xem Fan Yaoting, 1997. Về một phê bình những tranh luận xung quanh lịch sử ban đầu về xá lợi của Huyền Trang, xem Huang Yunxi 2007, 1–31. 

[12] Xá lợi này, được xác định là một phần đỉnh đầu của Đức Phật, được khai quật năm 2008.

[13] Tên của ngôi chùa này được đổi thành chùa Thiên Hi, và về sau lại đổi thành chùa Báo Ân năm 1686.

[14] Chu Minyi 褚民誼, “Tang Sanzang da bianjue fashi Xuanzang dinggu ta bei ji” 唐三藏大遍覺法師玄奘頂骨墖碑記 [Stele inscription for the stupa containing the parietal bone of Tang Sanzang Great Universal Awakening Dharma Master Xuanzang].

[15] Năm 1951, một phái đoàn thiện chí từ Ấn Độ đến Trung Quốc, xá lợi được trưng bày giữa các triển lãm khác ở Bảo tàng Nam Kinh. Xem Sunderlal, 1952, 308–9.

[16] Nanjing shi Fojiao jie 南京市佛教界

[17] Holmes Welch, 1972, 21.

[18] Wang Zhongde, 1999, 68. Lễ kỷ niệm cũng được tổ chức ở Bắc Kinh, Tây An, Đài Bắc, Nhật Bản và Ấn Độ. Các sự kiện tại chùa Pháp Nguyên ở Bắc Kinh và Hưng Giáo ở Tây An đều được quảng bố như các lễ kỷ niệm văn hóa châu Á chung. Các đại diện từ Campuchia, Ceylon, Indonesia, Nhật Bản, Lào, Mông Cổ, Nepal, Pakistan và Việt Nam đã có bài phát biểu ở cả hai địa điểm, bên dưới các biểu ngữ ghi “Cũng cố thống nhất các dân tộc Á Châu” và “Phát triển giao lưu văn hóa giữa tất cả các quốc gia châu Á!” Xem thêm Renmin ribao, June 28, 1964, và July 6, 1964.

[19] Linh Cốc có một lịch sử về việc quốc gia chiếm dụng, có thể tính từ những năm 1920. Xem Rebecca Nedostup, 2010. 

[20] Nitchū Bukkyō kōryū kondankai 日中仏教交流懇談会

[21] Nhóm được dẫn đầu bởi Nishikawa Keibun 西川景文 (1893–1973). Về báo cáo chuyến đi, xem Nukaga Shōyū 2003, 149–65.

[22] Xem Yang Yongquan, 2001, 99–100. 

[23] Sau đó, nhà tưởng niệm Giám Chân ở Linh Cốc được di dời, nhưng nhà tưởng niệm Huyền Trang vẫn còn, và gần đây được cải tạo và mở rộng. Trên bàn thờ chính, phía trước tượng Huyền Trang đặt một tháp nhỏ mạ vàng, chứa các mảnh xương hộp sọ. Hóa ra, những mảnh đó, không phải là xá lợi thật sự của Huyền Trang mà chỉ là vật nghi trang, được lấy từ thi hài của một nhà sư, khai quật ở Triết giang. Xá lợi thật sự được giấu kín và chỉ được mang ra vào những dịp đặc biệt, nhưng ngay cả vật biểu trưng này cũng chỉ là một mảnh xương được mang đến Linh Cốc từ năm 1973. Phần còn lại của xá lợi ở Linh Cốc, bây giờ đang thờ ở Đài Loan.

[24] Năm 1949, Bai Jian, cũng là người đã mang xá lợi đến Bắc Kinh sáu năm trước, đã gửi ba mảnh xá lợi, cùng một báo cáo về lịch sử của nó cho Giáo sư Mông Văn Thông (Meng Wentong 蒙文通;1894–1968) của Đại học Hoa Tây 华西大学. Báo cáo viết tay của Bai Longping, “Tang Sanzang fashi Xuanzang linggu yinxian zhuanyi zhi ji” 唐三藏法师玄奘灵骨隐显转 移之迹 [The traces of the covert transfer of Tang Sanzang Dharma Master Xuanzang’s numinous bone], tháng 3 năm 1949, được giới thiệu trong “Xianjun Meng Wentong xiansheng yu Xuangong de Foyuan” 先君蒙文通先生与奘公的佛缘 [The late Mr. Meng Wentong’s Buddhist affinity with Master (Xuan)zang], http://hk.plm.org.cn/gnews/20101112/20101112214490.html.

[25] Vào ngày 15 tháng 10, một lễ kỷ niệm được tổ chức tại chùa Quảng Tế ở Bắc Kinh, và một đại biểu Tích Lan trao tặng cho CBA một xá lợi Phật, một bản Kinh bằng lá bối, và một nhánh cây Bồ Đề. Ngài Hư Vân (Xuyun 虛雲; mất 1959), đang là Chủ tịch danh dự của CBA, lúc đó, đã tặng cho vị trưởng đoàn đại biểu người Sinhala, Đại sư Dhammaratana, một tượng Phật và một bảo tháp thu nhỏ bằng bạc. Báo cáo trước đây về sự trao đổi này đã không đề cập đến nội dung của bảo tháp. Xem Chinese Buddhist Association, 1956, 176. Báo cáo sau này chỉ rõ bảo tháp đó chứa xá lợi của Huyền Trang. Xem thêm Chi Nai, 1998, 1:265.

[26] Chúng gồm sự tôn trọng lẫn nhau đối với sự toàn vẹn và chủ quyền lãnh thổ, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp lẫn nhau trong sự vụ nội bộ mỗi nước, bình đẳng và tương trợ lẫn nhau, và cùng tồn tại hòa bình.

[27] Herbert Passin, “Sino-Indian Cultural Relations,” China Quarterly 7 (1961): 85–100.

[28] John Strong, 2004, 205–9.

[29] Xá lợi răng đã được gửi đến Tích Lan vào năm 1961. Về những chú thích tour của chính phủ Tích Lan, Zhao Puchu lưu ý, nó có “ý nghĩa rằng nhân dân Tích LanTrung Quốc, sau khi tự giải phóng chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, đã không chỉ làm sống lại một tình hữu nghị lịch sử và sâu sắc, mà còn phát triển tình bạn đó.” Xem Welch, Buddhism Under Mao, 184.

[30] Đức Dalai Lama cùng với Panchen Lama, đã được được mời đến Patna để tham dự các buổi lễ kỷ niệm 2500 năm ngày sinh của đức Phật.

[31] Kế hoạch của chính phủ Trung Quốc về loạt trao đổi này được khắc trên tấm bia, dưới sự bảo trợ của Ban tôn giáo nhà nước PRC và dựng tại Nalanda năm 2006. Bản khắc, cùng với bản dịch tiếng Anh, có sẵn trực tuyến tại http://hk.plm.org.cn / gnews / 2008118 / 200811885817.html.

[32] Báo cáo về chuyến đi Ấn Độ của Dalai Lama và Panchen Lama, cùng bức ảnh Đức Đạt Lai Lạt Ma trao tặng xá lợi Huyền Trang cho Thủ tướng Nehru, có thể được tìm thấy trong Hongfa yuekan 2 (1957): 177. Cũng xem “Move to Shift Xuanzang Relics to Nalanda,” Times of India, December 29, 2003.

[33] Vào năm 2006, việc thành lập được sắp đặt do Ấn Độ thiết kế và tài trợ xây dựng tại chùa Bạch Mã (White Horse Temple (baima si 白馬寺) ở Lạc Dương, Hà Nam, địa điểm mà truyền thuyết cho rằng, Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc đầu tiên từ Ấn Độ. Về cấu trúc, mô phỏng Đại bảo tháp ở Sanchi, được khánh thành vào ngày 27 tháng 5 năm 2010, bởi Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil. Xem “India to Gift Sanchi Stupa Replica and Sarnath Buddha to China,” Times of India, April 25, 2010.

[34] 水野梅曉/Thủy Dã Mai Hiểu, 1878-1949.

[35] 倉持秀峰/Thương Trì Tú Phong, 1891-1972.

[36] Mizuno Baigyō 水野梅曉, “Genzō tō no yurai” 玄奘塔の由来 [The origin of Xuanzang’s stupa], Shūkyō jihō 3, no. 5 (May 1949), được trích trong Sakaida Yukiko, 2010, 84.

[37] 太田外世雄/Thái Điền Ngoại Thế Hùng, không rõ ngày tháng.

[38] Được trích trong Sakaida Yukiko, 2010, 84.

[39] Hui-li and Jung-hsi Li, 1995, 173.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 287)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 561)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 652)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 678)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1316)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 869)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1031)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1016)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1324)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1347)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1347)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant