Định nghĩa chính xác một hệ thốngcăn bản của thực hànhPhật giáo là
một điều bất khả vì số đông trường phái và kiểu cách cả ở Ấn Độ lẫn Tây
Tạng. Tuy nhiên, có thể hình thành một bức tranh tổng quát của hệ thốngPhật giáoĐại thừa như Milarepa đã giảng giải trong nhiều bài ca và câu
chuyện của ngài. Biết rằng sự giải thích và nhấn mạnh của ngài thay đổi
theo thính chúng, chúng ta có thể xây dựng lại một bản văn ngắn về “những giai đoạn của con đường” trong đó những yếu tốcăn bản của các Thừa Tiểu, Đại và Mật được đặt vào phối cảnh trong một hệ thốngnhất quán và hiệu quả. Điều này cho thấy rằng ngay trong giai đoạn sơ thời ở Tây Tạng đã có một khuynh hướng hội nhập ba thừa và những trường phái khác nhau của Phật giáoẤn Độ vào một hệ thống thống nhất. Những đoạn trích ở sau là từ “Thiền định đầu tiên của Mila” và “Sự kiêu hãnh Đại Ấn
của Rechungpa”, cả hai đều lấy từ đại hợp tuyển Những Câu Chuyện và Bài
Ca từ Truyền ThốngKhẩu Truyền của Jetsušn Milarepa, từ đây mà mọi chất
liệu trong cuốn sách này được rút ra.
Bước đầu tiên là hiểu được
sự rỗi rãnh và cơ hội may mắn cho giải thoát mà cuộc đời làm người có thể mang lại :
Thân thể máu thịt mong manh được phú bẩm với một tâm thứcchủ quan có từ vòng xích mười hai duyên sanh – vô minh và vân vân. Nó là chiếc thuyền lớn của rảnh rỗi và cơ hội cho những ai được phú
bẩm phước đức và lòng khát khao giải thoát. Tuy nhiên, với người xấu họ
sẽ dùng nó để chất chồng thêm tội lỗi thì nó là một người dẫn đường đi đến những cõi thấp kém. Nó đứng giữa biên giới của phát triển và thoái hóa. Tôi đã chợt hiểu tình thếquyết định này, nó có thể dẫn đến sự tốt đẹplâu dài hay hư hỏng lâu dài.
Mila giải thíchthân phận tổng quát của sanh tử luân hồi trong cách này :
Chúng sanh trong sáu loài bị mê ám bởi vô minh và bám níu vào những hình tướng ảo huyễn đã lạc loài khắp sanh tử từ đời vô thủy. Họ cho tính vô ngã này là một cái ngã, cái không có ta là một cái ta, và cứ thế mà trôi dạt trong biển cả khổ đau của sanh tử qua sự bám níu say mê vào những dấu vết hằn in của nghiệp xấu.
Mỗi hành động, mỗi kinh nghiệm đều để dấu vết của chúng in vào tâm thứcchúng ta theo hình thức những “hạt giống” cho sự tái hồi những kinh nghiệm ấy. Sự in dấu ban sơ là sự in dấu của vô minh,
nó sanh ra thế giới quan sai lầm về hiện hữu của cái ngã trong con người và tự tánh trong sự vật như chúng xuất hiện với người bình thường.
Trong dòng chảy của cảm giácbản năngsai lầm này về thực chấtkinh nghiệm của chúng ta, những phiền não thích, ghét... bắt đầu vận hành trò
chơi của chúng.
Bây giờ giải thíchviệc làm bên trong của điều ấy : chúng sanh lang thang trong sanh tử do vì sự hoạt động của mười hai
móc xích nhân quả của duyên sanh. Trước tiên, vô minh – có nghĩa là “không biết”, “không hiểu”, “không thấu hiểu” (tình trạng thật sự của sự
vật trong kinh nghiệm của chúng ta) – cung cấpđiều kiện cho hoạt động tổng hợp (của những yếu tố của đời sốngsanh tử). Tiến trình này tiếp nốicho đến những khổ cảnh không tránh được của sanh, lão, bệnh, tử lập đi lập lại.
Chuỗi xích duyên sanh này là tiến trình do đó chúng sanh sanh đi sanh lại trong hoàn cảnhsanh tử với sáu loại sống : địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thiên và a tu la. Tình trạng và hoàn cảnh của đời sốngtái sanh của chúng sanh được xác định bởi những phản ứng (nghiệp) của chúng đối với những kinh nghiệm trong các đời trước.
Phần
đông chúng sanhtái sanh vào cảnh giới thấp (như địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh) qua sức mạnh của hành động xấu. Những tình trạngthấp kém ấy thì khốn khổ, và ngay cả đời sống trong ba cảnh giới cao hơn cũng có bản
chất là khổ.
Phương cách để sửa chữahậu quả này là hiểu biết ngay từ lúc bắt đầu sự khó có được nhàn rỗi và cơ hội (của cuộc đời được
làm người) – rằng sự rảnh rỗi và cơ hội dù chỉ có thể tìm được một lần trong cả trăm lần sanh ra thì cũng vô thường và rằng thời gian chết thì không chắc chắn. Bạn phải nghĩ đến sự kiện không thể nào biết được mình sẽ sanh chỗ nào sau khi chết, và bởi vì bạn bị sức mạnh của nghiệp đẩy đi không thể cưỡng, bạn phải xem xét mối tương quan nhân quả của hành động.
Như thế theo Mila, bước đầu tiên là phải có một hiểu biết tận gốc tình trạngsanh tử và những nguyên nhân của nó, tham thiền về khổ, chết và vô thường để đẩy mạnh sự thôi thúcgiải thoát thành một nỗ lực mạnh mẽ và hiểu rằng sự hiện hữuhiện thời trong thân phậncon người
là cơ hội khả dĩ tốt nhất để lật đổ sự áp bức của vô minh và thành tựugiải thoát.
Được thúc đẩy bởi những hiểu biết này, bấy giờ người ta đi vào cánh cửa của thực hành thực sự đạo Phật :
Để được che chở khỏi sự tái sanh cõi thấp Do sức mạnh của những hạnh nghiệp xấu xa, Lama và Tam Bảo là nơi quy yduy nhất.
Trong mọi phái Phật
giáo, người sơ cơquy y Tam Bảo, gồm Phật, bậc có thể hướng dẫn người khác qua sự tự giải thoát khỏi sanh tử của mình, Pháp (giáo lý của ngài), và Tăng (cộng đồng những người thực hành Pháp). Sự quy y, nương tựa này không nhất thiết phải bao gồm một chối bỏ những theo đuổithế gian mà là đặt chúng trong phối cảnh hài hòa với những tác nhân hướng đạo hiệu quả đi đến giải thoát này. Bởi vì ban đầuTam Bảo không thể là một hiện diệnsống động đối với chúng ta, vị lama (guru) chính là sống thực của Tam Bảo. Như thế ở Tây Tạng vị lama được đặt quan trọng hàng đầu hơn cả chư Phật, bởi vì chính qua vị này mà chúng ta mới sẽ gặp được
chư Phật. Mila gọi sự hiểu biết về cam kết với một lama này là “chìa khóa đầu tiên tối hệ trọng”.
Sau đó, cần thiết phải dựa trên một nền tảng được lập nên bởi những lời nguyện tự giải thoát mình, với một thúc dục thoát khỏisanh tử được thúc đẩy bởi tư duy về cái chết, vô thường, nhân quả của hành động, và sự khó tìm ra lại được sự rảnh rỗi và
cơ hội (của kiếp sống làm người).
Sự cam kết với giải thoátcá nhân (pratimoksa) để chỉ những thệ nguyện của Tiểu thừa, nó được dùng như yếu tố hướng dẫn cho phépđạt đếnNiết Bàn, sự giải thoát cho mình khỏi khổ đau. Từ đó mà có danh từ “Tiểu thừa” – người chỉ có thể chuyên chở chính mình. Cần phảimở rộngđộng lực này hơn nữa. Đại thừa bao trùm
tất cả chúng sanh trong tầm nhìn của nó, bởi vì thật ra, mọi đời sống đều liên hệ chặt chẽ với nhau không thể tách lìa, và cuộc chiến đấu để giác ngộ phải được theo đuổi vì tất cả mọi người. Mila giải thích điều này như sau :
Tôi hiểu rằng định hướng như vậy đến sự an vui của riêng mình tạo nên Tiểu thừa, và Đại thừabao gồm sự hồi hướng mọi hoạt động của mình cho lợi lạc của những người khác với lòng từ bi nhắm đến giác ngộ trong ước muốn giải thoát mọi chúng sanh khỏi sanh tử.
Sự
nhấn mạnh này vào tâm nhắm đến giác ngộ (tâm Bồ đề) phân biệtĐại thừa và Tiểu thừa. Thiết yếu phải nhờ vào sự thực hànhĐại thừa, để cho trí huệ soi thấu mà nhờ nó cuối cùngchúng ta sẽ thấy tình trạngchân thật trống rỗng của mọi sự, được cân bằng với từ bi của tâm hướng đến giác ngộ, để tựu thành sựtự dohoàn hảo, không riêng biệt, khỏi sanh tử, tức
là giác ngộ. Ngay trong Mật thừa, nó là sự tinh lọc trong phương pháp nhưng căn bản vẫn đồng với Đại thừa trong triết lý, thì tâm hướng đến giác ngộ là một tiền đề cần thiết cho sự thực hành. Từ Sanskrit của cái này, là tâm Bồ đề, có thể được định nghĩa như là tình trạng của tâm trong đó mọi hoạt động đều được tiến hành một cách tự nhiên vì lợi lạc cho tất cả. Chính từ một khao khát giải thoát cho chính mình mà người ta
có khả năng hướng dẫn cho những người khác. Ngược lại, tâm Bồ đề tự nó không trực tiếp tạo ra giải thoát, vì trừ phi được tôi luyện bởi trí huệ, còn không nó chỉ ràng buộchành giả chặt thêm vào sanh tử.
Những
người đi một con đường làm phát sanh tâm hướng đến giác ngộ này qua những phương pháp mật thừa hay không phải mật thừa được gọi là những bồ tát, bodhisattva hay “những chiến sĩ cho giác ngộ” (Tiếng Sanskrit sattva nghĩa là “chúng sanh”, nhưng cũng có nghĩa thứ hai là anh hùng hay can đảm, và được dịch ra như vậy trong tiếng Tây Tạng). Mila tóm tắt
theo cách này :
Nhận thức được sanh tử như một tù ngục, hiểu rằng mọi chúng sanh lạc lõng trong đó không ai khác hơn là cha mẹchúng ta, những người đã cho chúng ta sự sanh ra đời suốt vô thủy kiếp. Với tình thương và bi mẫn đối với họ đang lạc lõng trong sanh tử luân hồi, làm phát khởi tâm nhắm đến giác ngộ tối thượng vì sự giải thoát cho họ.
Rồi
cỡi lên những ngọn sóng lớn của sự thực hành nhắm đến giác ngộ : ba sự thực hành nền tảng của con đường, bốn phương tiệnxã hội (bốn nhiếp pháp), và sáu cái siêu việt, như thế tích tập hai kho tàng và tịnh hóa hai chướng ngại.
Đoạn này tổng kết những thực hànhchính yếu của Đại thừa. Ba thực hành nền tảng là giới nghĩa là thực hành về thái độ đối xử, định và huệ nghĩa là những thực hành về tâm thức. Bốn phương tiệnxã hội – bố thí, tương giao thích đáng, tham dự vào sự phát triển của người khác, và phụng sự như là một gương mẫu cho người khác – là những thực hành được hướng chủ yếu đến sự lợi lạc của người khác. Sáu cái siêu việt – bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, định và trí huệ –
được thực hành chủ yếu cho sự phát triển riêng mình, mặc dầudĩ nhiên trong Đại thừa không có sự quan tâm cho riêng mình.
Những thực hành này có một hiệu quả đôi. Thứ nhất, chúng làm tăng thêm hai kho thần
lực của mình – kho công đức đặt nền móng trên sự ứng xử đạo đức và cử hànhnghi lễ, và kho trí huệ đặt nền móng trên sự khảo sát tình trạng của sanh tử và sự sửa chữa nó, từ những tin tức lượm lặt thông hiểu đầu tiên đến trí huệsiêu việt, siêu thế, vượt khỏi lời nói và tư tưởng. Thứ
hai, chúng tiêu trừ hai thứ chướng ngại – phiền não chướng ngăn ngại sự
thông tỏ Niết Bàn, và sở tri chướng, chướng ngại về đối tượng, nó che đậythực tại của sự vật, và như thế ngăn ngại toàn giác của Phật tánhviên mãn.
Mila giải thích sáu siêu việt, đặc biệt là định và trí huệ, phải được phối hợp như thế nào trong một thực hành có hệ thống của con đường :
Bố thí, giữ giới và nhẫn nhục là những phương tiện để
tích tập kho công đức. Định và huệ là những phương tiện để tích tập kho
hiểu biết. Hãy nỗ lực thêm nữa cả thảy chúng. Cái hiểu biết cao nhất là
tâm của Phật. Người nào muốn đạt được nó cần áp dụng những phương pháp khác nhau này.
Sự chú tâmđặc biệt là dùng để phát triển định và huệ. Thiền địnhcăn bản có thể chia thành sự tập trung chuyên chú, hay làm bình lặng tâm thức, qua sự tập trung nhất tâm và tiến trình phân tích của trí huệ phát sanh qua nội quánsiêu việt. Sự an định này, tiếng
Sanskrit gọi là samatha, được gọi thế vì do tập trung nhất tâm mà hoạt động của tâm thức đứng lặng. Khi những tác động của tâm thứcbiến đổi, tâm thứcđảm nhận những cách thức vận hành siêu bền khác nhau. Tám “cách
thức khác nhau” này được gọi là cấp độ định (dhyana) và tương tự nhau trong vũ trụ luận về tâm thức của cả Phật giáo và Ấn giáo. Toàn bộ những
cấp độ định ấy đều nằm trong sanh tử, dầu đa số có bản chất tinh lọc hơn ý thứcbình thường, và là phạm vi của thiền địnhtruyền thống. Bằng cách thực hành những trạng thái này, mọi thiền giả có được những thần lực và hỷ lạc.
Bởi vì lạc thú của tâm thức và thần lựcsiêu nhiên
do chúng mang lại, những cấp độ định có thể được cho là một con đường đi đến giải thoát, nhưng không phải vậy. Phần nào, chúng chỉ là những căn cứ vững vàng để từ đó tâm thức siêu xuất vượt qua đến sự đối mặt trực tiếp với tánh Không qua đó trí huệ mới có thể hiển lộ. Bởi vì chúng
phát triển và yên tĩnh hơn hoạt độngtâm thứcbình thường, chúng giống như cái bóng che gió bằng thủy tinh của ngọn đèn dầu, làm ổn cố ngọn lửa
nhỏ của trí huệ khỏi những ngọn gió của tác độngphiền nãoquấy nhiễu.
Trí
huệ được phát triển bằng sự thực hànhnội quán, một tiến trình khảo sát
và phân tích của tri giácchúng ta, một sự thúc đẩy của trí năng đến những giới hạn chót của chúng cho đến khi tia chớp của kinh nghiệm trực tiếp về thực tại xảy ra. Đây là kinh nghiệm về vô ngã của con người và về tánh Không, hay vô tự tánh trong sự vật. Chỉ có trạng tháithiền định
mới có thể tẩy sạch những dấu vết của kinh nghiệmsai lầm làm nảy sinh những trạng tháiphiền não và những ảo tưởng về thực tại. Như thế thực hànhquán chiếuvượt quá sự thực hành định chỉ, cái này chỉ có thể đàn áp những hình thứchoạt động của những trạng tháiphiền não của tâm thức.
Thiền giả phải đi qua năm con đường đến giác ngộ. Tiến trình tích tập hai kho công đức và trí huệ là con đường Tích Tập, và sự áp dụng trong tham thiền hai kho này vào tri kiến trực tiếp tánh Không gọi là con đườngÁp Dụng. Tri kiến trực tiếp tánh Không chính là con đường Thấy, và sự phát triển và áp dụng lập đi lập lại cái tri kiến trực
tiếp ấy để tẩy sạch hoạt độngám ảnh của những sự in dấu vết được gọi là con đườngThiền Định. Sự trừ sạch mọi dấu vết của hai thứ chướng ngại
là con đườngCứu Cánh, hay con đường vượt khỏi sự thực hành, tương đương với Phật tánhtrọn vẹn hay Phật quả. Mila tóm tắt :
Tóm lại, nền tảng là niềm tin, người trợ giúp là nỗ lực, cái đối trị là sự thu thập (đức hạnh) và sám hối (tội lỗi), nguyên nhân trực tiếp là sự phối hợp của trí huệ và phương tiện (phương diệnhoạt động của tâm hướng
đến giác ngộ), nguyên nhân phụ trợ là sự thực hànhcon đường tích tập và con đườngáp dụng. Khi con đường thấy nhờ vậy được đạt đến, đó là kinh nghiệm trực tiếp của trí huệ quán chiếu.
Với sự đạt đếncon đường thấy, người chiến sĩ Bồ tát đứng trên cấp bậc thứ nhất của mười địa bồ tát, và sau đó lần lượtvượt qua để đến cấp bậc thứ mười một, cấp
bậc của giác ngộ.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Tôi đặt bút bắt đầu viết "Lời Vào Sách" nầy đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 1995 sau khi tụng một thời kinh Lăng Nghiêm và tọa thiền tại Chánh điện.
Có lẽ đây cũng là một trong những viễn ảnh của tâm thức và mong rằng những trang sách tiếp theo sẽ phơi bày hết mọi khía cạnh của vấn đề, để độc giả có một cái nhìn tổng quát hơn.
Ai trói buộc mình? Không biết có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi đó với chúng ta chưa? Đến chùa học pháp hay đi tu chỉ để cầu giải thoát. Mục đíchtu hoặcxuất gia là cầu giải thoátsinh tử. Giải thoát có nghĩa là mở, mở trói ra. Cầu giải thoát là đang bị trói. Nhưng ai trói mình, cái gì trói mình? Khi biết mối manh mới mở được.
Sống Trong Từng Sát Na là phương phápthực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tậpdựa trêntinh thần Kinh Bốn Lãnh VựcQuán Niệm.
Nhẫn nhục là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh nhẫn nhụcthành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giảthành tựutừ tâmgiải thoát và bi tâmgiải thoát.
Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
Tuyển tập “Bát Cơm Hương Tích” của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một phần lớn của đời tác giả, ghi lại những gì Thầy mắt thấy tai nghe một thời và rồi nhớ lại...
Quyển sách "Hãy làm một cuộc cách mạng" trên đây của Đức Đạt-lai Lạt-ma khởi sự được thành hình từ một cuộc phỏng vấn mà Ngài đã dành riêng cho một đệ tửthân tín là bà Sofia Stril-Rever vào ngày 3 tháng giêng năm 2017.
Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng, Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa, Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng, Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa (Tuệ Sỹ)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng
Trong tập sách nhỏ này tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của Đức Phật... Con Đường Thoát Khổ - Đại đức W. Rahula; Thích NữTrí Hải dịch
Tôi cảm động, vì sống trong đạo giải thoát tôi đã tiếp nhận được một thứ tình thiêng liêng, trong sáng; một thứ tình êm nhẹ thanh thoát đượm ngát hương vị lý tưởng...
Đọc “Dấu Thời Gian” không phải là đọc sự tư duysáng tạo mà là đọc những chứng tíchlịch sửthời đại, chứng nhân cùng những tâm tình được khơi dậy trong lòng tác giảxuyên qua những chặng đường thời gian...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.