Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Học Lời Phật Dạy Qua Kinh Tử Pháp

31 Tháng Mười Hai 202118:02(Xem: 2627)
Học Lời Phật Dạy Qua Kinh Tử Pháp

Học Lời Phật Dạy Qua Kinh Tử Pháp

 
Hoàng Phước Đại

hoa sen 1

Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt. Có sinh, phải có diệt. Diệt là chấm dứt để trở về với cát bụi, khép kín một vòng sinh lão bệnh tử. Tử là sự chết, sự kết thúc. Trong Kinh Tử Pháp[1] ( Tạp A Hàm, quyển 6, số 121, 雜阿含經 第6卷,一二一,死法), Phật dạy các đệ tử chánh tư duy về vô thường trong sinh tử để không dính mắc, không chấp giữ mà đạt đến   giác ngộ Niết Bàn.

Nội dung Kinh như sau:

“Một lần nọ Phật ở tại núi Ma Câu La. Lúc đó có vị thị giả tỳ kheo tên La Đà. Bấy giờ Thế Tôn nói với La Đà: Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong. Những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong.”

Nội dung đoạn Kinh văn trên, Phật dạy các đệ tử vạn vậtvô thường, thế gianvô thường(世 間 無 常)[2]. Vạn vật  phải chịu quy luật sinh, trụ, dị, diệt. Diệt vong để có sự tiếp nối. Bởi sự tiếp nối xảy ra trong từng sát na, nên vạn vật không có tính thường hằng. Ngay cả thân ngũ uẩn cũng vô thường.  Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường.

Ở kinh văn tiếp theo dưới đây, Phật chỉ dạy cho các đệ tử của ngài vô thường là khổ:

“Phật hỏi tỳ kheo La Đà: Sắc là thường hay vô thường?
La Đà thưa Phật: Bạch Thế Tôn, vô thường.
Phật lại hỏi: Nếu là vô thường, thì khổ chăng?
La Đà thưa Phật: Bạch Thế Tôn,  khổ.
Phật hỏi tỳ kheo La Đà: Đối với thọ, tưởng, hành, thức có vô thường?
La Đà thưa Phật: Bạch Thế Tôn, vô thường.
Phật lại hỏi: Nếu là vô thường, thì khổ chăng?
La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn,  khổ.”

Học đoạn Kinh văn trên, người học Phật hiểu được vô thường là khổ bởi tất cả phải theo quy luật diệt vong (一切皆是死法, nhất thiết giai thị tử pháp). Nhưng  người học phải liễu tri rằng bản tính vô thường không gây ra khổ mà vọng tưởng sự vô thườngthường hằng mới đem lại khổ đau. Với con người, ít ai dễ dàng chấp nhận vô thường. Ít ai chấp nhận thân thể của mình vô thường như cỏ cây hoa lá. Chấp nhận sinh trụ dị diệtquy luật.

Biết rằng vạn phápvô thường, khổ, vậy chúng ta, những đệ tử của Phật phải tu học như thế nào, chánh tư duy về sắc, thọ, tưởng, hành thức thế nào để đem lại an lạc trong cuộc sống.

Đọc tiếp đoạn Kinh văn sau để biết Phật dạy các đệ tử của ngài tại sao các bậc đa văn thánh đệ tử đã an nhiên tự tại trong cuộc sống.

“Phật lại hỏi: Này La Đà, nếu vô thường, khổ là pháp biến dịch, đa văn thánh đệ tử ở trong đó có thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?

La Đà thưa Phật : Bạch Thế Tôn, không.

Phật dạy La Đà: Nếu đa văn thánh đệ tử đối với năm thọ ấm này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối với các pháp thế gian không chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết Bàn: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Đa văn thánh đệ tử là hàng đệ tử học rộng, nghe nhiều, có trí tuệ soi sáng con đường tu học. Liễu tri tất cả các pháp đều vô thường, có sinh thì phải có diệt. Khi đã vượt được ý niệm sinh diệt thì các vị ấy tiếp xúc được với cái vui của Niết Bàn.

Hàng đệ tử hậu học, chúng ta cần phải tinh tấn tu học để có tuệ giác soi sáng nhận thức về vô thường, Học được quy luật diệt vong ( 一切皆是死法, nhất thiết giai thị tử pháp) mà không còn ảo vọng về thường hằng trong cuộc sống. Vô thường dạy cho mình trân quý  mỗi giây phút hiện tạiVô thường làm mình yêu quý chính mình và người thân của mình nhiều hơn nữa. Hãy sống chánh niệm trong hiện tại. Không chấp giữ đâu là ngã, đâu là ngã sở thì cuộc đời nhẹ nhàng hơn. Đó là đích của tu học.

Xin mời quý vị đọc lại toàn bộ Kinh văn Tử Pháp.

 

Bản Việt văn

Kinh Tử Pháp

Tôi nghe như vầy:

Một lần nọ Phật ở tại núi Ma Câu La. Lúc đó có  vị tỳ kheo thị giả tên là La Đà. Bấy giờ Thế Tôn nói với La Đà: Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong.

Những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều theo quy luật diệt vong.

Phật hỏi tỳ kheo La Đà:   “Sắc là thường hay vô thường?”

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn, vô thường.”

Phật lại hỏi: “Nếu là vô thường, thì khổ chăng?”

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn,  khổ.”

Phật hỏi tỳ kheo La Đà: Đối với thọ, tưởng, hành, thức có vô thường?

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn, vô thường.”

Phật lại hỏi: “Nếu là vô thường, thì khổ chăng?”

La Đà thưa Phật: “Bạch Thế Tôn,  khổ.”

“Phật lại hỏi: Này La Đà, nếu vô thường, khổ là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy sắc là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau chăng?”

La Đà thưa Phật : Bạch Thế Tôn, không.

Phật dạy La Đà: Nếu đa văn Thánh đệ tử đối với năm thọ ấm này không thấy là ngã, là ngã sở nên đối với các pháp thế gian không chấp giữ. Vì không có gì chấp giữ nên không có gì để dính mắc. Vì không có gì để dính mắc nên tự giác ngộ Niết-bàn: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, tỳ kheo La Đà nghe những gì Đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

Bản Hán văn

 

雜阿含經 (一二一) 死法

如是我聞:

一時,佛住摩拘羅山。時,有侍者比丘名曰羅陀。

爾時,世尊告羅陀比丘言:「諸所有色,若過去、若未來、若現在,若內、若外,若麁、若細,若好、若醜,若遠、若近,彼一切皆是死法;所有受、想、行、識,若過去、若未來、若現在,若內、若外,若麁、若細,若好、若醜,若遠、若近,彼一切皆是死法。」

 

佛告羅陀:「色為常耶?為無常耶?」

答曰:「無常。世尊!」

復問:「若無常者,是苦耶?」

答曰:「是苦。世尊!」

「受、想、行、識,為常、為無常耶?」

答曰:「無常。世尊!」

復問:「若無常者,是苦耶?」

答曰:「是苦。世尊!」

復問:「若無常、苦者,是變易法,多聞聖弟子寧於中見是我、異我、相在不?」

答曰:「不也,世尊!」

佛告羅陀:「若多聞聖弟子於此五受陰如實觀察非我、非我所者,於諸世間都無所取,無所取者無所著,無所著故自覺涅槃:『我生已盡,梵行已立,所作已作,自知不受後有。』」

佛說此經已,羅陀比丘聞佛所說,歡喜奉行。

 

Bản Nôm

Nhất thời, Phật tại Ma Câu La sơn. Thời, hữu thị giả tỳ kheo danh viết La Đà.  Nhĩ thời, Thế Tôn cáo La Đà tỳ kheo ngôn: Chư sở hữu sắc, nhược quá khử, nhược vị lai, nhược hiện tại, nhược nội, nhược ngoại, nhược thô, nhược tế, nhược hảo, ngược xú, nhược viễn, nhược cận, bỉ nhất thiết tử pháp. Sở hữu thọ, tưởng, hành, thức, nhược quá khử, nhược vị lai, nhược hiện tại, nhược nội, nhược ngoại, nhược thô, nhược tế, nhược hảo, ngược xú, nhược viễn, nhược cận, bỉ nhất thiết tử pháp.

Phật cáo La Đà: Sắc vi thường da? Vi vô thường da?

Đáp viết: Vô thường, Thế Tôn!

Phục vấn: Nhược vô thường giả, thị khổ da?       

Đáp viết: Thị khổ, Thế Tôn!

Thọ, tưởng, hành, thức vi thường, vi vô thường da?

Đáp viết: Vô thường, Thế Tôn!

Phục vấn: Nhược vô thường giả, thị khổ da?       

Đáp viết: Thị khổ, Thế Tôn!

Phục vấn: Nhược vô thường, khổ giả, thị biến dịch pháp. Đa văn thánh đệ tử ninh ư trung kiến thị ngã, dị ngã, tương tại phủ?

Đáp viết: Bất dã, Thế Tôn!

Phật cáo La Đà: Nhược đa văn thánh đệ tử ư thử ngũ thọ uẩn như thật quán sát phi ngã, phi ngã sở giả, ư chư thế gian đô vô sở thủ, vô sở thủ giả vô sở giả, vô sở giả cố tự giác Niết Bàn. Ngã sanh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ tác, tự tri bất thọ hậu hữu.

          Phật thuyết thử Kinh dĩ, La Đà tỳ kheo văn Phật sở thuyết, hoan hỷ phụng hành. ( chung )

Xin nguyện hồi hướng công đức cho cụ bà Trương Thị Giao ( Vigil), Pháp danh Quảng Thiện được vãng sanh tịnh độ.

Nam Mô A Di Đà Phật.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Bến Tre, ngày 13 tháng 12 năm 2021
Hoàng Phước Đại – Đồng An


[1] https://tripitaka.cbeta.org/T02n0099_006- Kinh Tử Pháp

[2] http://tripitaka.cbeta.org/T17n0779_001- Kinh Bát Đại Nhân giác tri.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 93)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 125)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 120)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 138)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 172)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 225)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 213)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 230)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 222)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 258)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 239)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 200)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 155)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 183)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 207)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 290)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 297)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 385)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 354)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 332)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 346)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 600)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 571)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 846)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 443)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 677)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 493)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 470)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 383)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 503)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 459)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 650)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 447)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 851)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 572)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 578)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 954)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 678)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 572)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 867)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 542)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 624)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 638)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 533)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 708)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1017)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1196)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant