Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Chân Thường, Thấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu

11 Tháng Hai 202219:06(Xem: 2321)
Thấy Chân Thường, Thấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu
Thấy Chân Thường, Thấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu

Nguyễn Thế Đăng

dao


Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thì
Tự tánh vô công khắp hiện bày
Sáu căn vận dụng chân thường thấy
Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri.

Hiển hách phân minh thập nhị thì
Thử chi tự tánh nhậm thi vi
Lục căn vận dụng chân thường kiến
Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.

Đây là bài kệ thị tịch của Thiền sư Chân Nguyên (1647-1726). Bài kệ nói về tự tánh, tức là bản tánh của tâm của mỗi người, dù đã chứng ngộ hay chưa chứng ngộ, và sự biểu hiện của nó trong thế giới hình tướng của thế gian.

“Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thời”

Tự tánh, từ ngữ được Lục Tổ Huệ Năng dùng suốt trong Pháp Bảo Đàn Kinh, để chỉ bản tánh của tâm, hay “Phật tánh mà tất cả chúng sanh đều có” được nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Tự tánh này còn được gọi là tánh giác trong truyền thống Thiền, và trong Đại Toàn Thiện (Dzogchen) Ấn - Tạng gọi là tánh giác Rigpa. Tự tánh này luôn luôn tự tỏa sáng “rỡ ràng tỏ rõ mười hai thời”, cả ngày lẫn đêm, khi thức cũng như khi ngủ. Đây là ánh sáng căn bản của bản tánh của tâm mà kinh thường nói đến bằng từ “quang minh”.

Khi nói “rỡ ràng tỏ rõ” là nói đến phương diện Chiếu (hay Quán) của tự tánh, còn khi nói “tịch lặng bất động” là nói đến phương diện Tịch (hay Chỉ) của tự tánh. Tự tánh thì vừa Tịch vừa Chiếu, Chỉ Quán đồng thời.

Lục Tổ Huệ Năng nói tự tánh chiếu soi như sau:

“Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn, ngoài chiếu soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời lục dục. Tự tánh chiếu bên trong, ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tịnh độ Tây phương” (Phẩm Nghi Vấn).

Tự tánh vô công khắp hiện bày

Chữ vô công để dịch chữ nhậm vận, vô công dụng đạo.

Tự tánh tự nhiên, không ra sức, mà hiện bày khắp trong tất cả các hình tướng. Bởi vì tự tánh là ánh sáng căn bản vốn có, nên trên nền tảng ấy các hình tướng xuất hiện, như một tấm gương sáng thì trong đó có các hình bóng xuất hiện. Như một thiền ngữ xưa nói: “Trúc biếc xanh xanh đều là Pháp thân; Hoa vàng rờ rỡ không gì chẳng phải là Bát nhã”.

Thiền sư Thiền Lão (đời thứ sáu dòng Vô Ngôn Thông) nói:

Trúc biếc hoa vàng đâu (phải) ngoại cảnh
Trăng trong mây bạc lộ toàn chân.

Ánh sáng tự tâm thì chiếu khắp, nhưng khó thấy. Nhờ có sự vật được chiếu sáng mà dễ dàng thấy ánh sáng. Sự vật vừa được ánh sáng làm cho hiển lộ, nếu không có ánh sáng sẽ không có sự vật, vừa là chỗ để ánh sáng dựa vàobiểu lộ sự soi chiếu của nó. Sự vật chính là nơi ánh sáng biểu lộ. Sự vật là ánh sáng và cũng chẳng phải là ánh sáng. Sự vật thì chuyển động, vô thường, ánh sáng tự tâm thì không chuyển động, thường còn.

“Tự tánh vô công khắp hiện bày” là ánh sáng tự tánh, nền tảng ánh sáng tự tánh khắp hiện bày này nhờ nó mà tất cả các hình tướng xuất hiệnrỡ ràng tỏ rõ. Cho nên với người thấy tánh, sự vật chính là sự hiển bày của ánh sáng tự tánh vô công khắp hiện bày.

Đạo sư Padmasambhava nói về tự tánh hay tánh giác tỏa sáng này như sau:

Tánh giác của con vốn biết, vốn sáng tỏrạng rỡ quang minh


Khi nó hiển hiện thì được gọi là Bồ đề tâm, tâm giác ngộ
Không có bất kỳ hoạt động thiền định nào, nó siêu việt mọi đối tượng của hiểu biết
Không có bất kỳ xao lãng nào, nó là sự trong sáng quang minh của bản tánh.
Những hình tướng trống không trong chính chúng, trở nên tự giải thoát
Sáng tỏtánh Không bất khả phân là Pháp thân.
Bởi vì rõ ràng là không có cái gì để thành tựu trên con đường đến Phật quả
Vào lúc này con sẽ thực sự thấy Phật Kim Cương Tát Đỏa.

 (Self‑Liberation through seeing with naked Awareness, Vajranatha dịch; Tự giải thoát qua thấy với tánh giác trần trụi, ban dịch thuật Thiện Tri Thức).

“Sáu căn vận dụng chân thường thấy”

Tánh giác chiếu soi qua sáu căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý. Tánh giác là bản tánh của sáu căn, như kinh Lăng Nghiêm nói, “Một tinh minh (tánh giác) phân làm sáu phần hòa hợp (sáu căn)”. Cho nên khi sáu căn hoạt động (vận dụng) chúng ta có thể nhận biết nền tảng giác hay bản tánh giác của chúng. Bản tánh giác ấy là chân thường nên bài kệ nói “chân thường (được) thấy”. Cái thấy chân thường là một với chân thường, nên thấy chân thường chính là chân thường thấy, trong đó không có chủ thể và đối tượng. Chủ thể và đối tượng hòa tan vào cái thấy chân thường.

Người làm thanh tịnh tâm mình bằng thực hành Phật pháp thì khi được kinh điển hay một vị thầy khai thị thì có thể thấy bản tánh giác chân thường này nơi sáu căn, bởi vì sáu căn là sự biểu lộ của bản tánh giác chân thường ấy. Như các hình bóng trong tấm gương là sự biểu lộ của tấm gương sáng tỏ và bất động. Các hình bóng không nằm ngoài gương, nền tảng hay bản tánh của các hình bóng ấy chính là tấm gương.

“Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri”

Khi thấy, nhận biết đầy đủ và thuần thục trong tánh giác thì người ta thấy, nghe, xúc chạm… tánh giác ở khắp cả, vì không đâu không là sự biểu lộ của tánh giác.

“Tung hoành” là dọc ngang. Muôn pháp, tất cả các pháp, dọc ngang khắp mười phương, đều là tánh giác. Đây là cái thấy biết của Phật, được gọi là Chánh Biến Tri (cái thấy biết chân chánh cùng khắp).

Trong các kinh, khi Đức Phật thuyết pháp xong, thường nói có bao nhiêu vị đắc pháp nhãn tịnh, bao nhiêu vị đắc Vô sanh pháp nhẫn. Pháp nhãn tịnh là con mắt pháp thanh tịnh, thấy tất cả các pháp “bổn lai thanh tịnh”. Khi con mắt pháp thanh tịnh này khai mở hoàn toàn thì được gọi là Chánh Biến Tri. Khi ấy, tất cả các pháp được thấy biết bằng Chánh Biến Tri thì trở thành Chánh Biến Tri: tất cả mắt tai mũi lưỡi thân ý và tất cả những đối tượng của chúng sắc thanh hương vị xúc pháp đều trở thành Chánh Biến Tri.

Khi mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là tánh giác thì sắc thanh hương vị xúc pháp đều là tánh giác. Khi ấy người ta bước vào Tịnh độ của Phật hay nói theo Mật giáo là bước vào và ở nơi trung tâm Mạn đà la, trở thành một thành tựu giả: tất cả âm thanhthần chú, tức là lời của Phật, tất cả sắc tướng thế giớichúng sanhHóa thân của Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 105)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 132)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 144)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 153)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 182)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 231)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 218)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 230)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 223)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 262)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 247)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 210)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 157)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 208)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 350)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 609)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 575)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 850)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 485)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 465)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 651)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 448)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 852)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 574)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 579)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 969)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 681)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 874)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 545)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 677)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 650)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 626)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 534)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1020)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant