Khi gặp chuyện muộn phiền, khó khăn, hay gặp lúc bế tắc, khó xử, người ta thường buột miệng mà nói ra 2 chữ: “Tùy duyên”. Đó là câu cửa miệng của rất nhiều người nhưng hiểu được ý nghĩa sâu sắc thì lại không phải là chuyện đơn giản.
Kỳ thực, tùy duyên vốn không phải chuyện dễ làm. Phải là người có cảnh giớitư tưởngnhất định thì mới thật sự thấu hiểu và làm tốt điều này. Cái gọi là “tùy” ở đây không phải là tùy tiện hay tùy tùng (đi theo) mà chính là: Thuận theotự nhiên, không oán hận, không nóng nảy, không cưỡng cầu.
Vậy thế nào là “duyên”? Vạn sự, vạn vật trên đời này thảy đều liên quanvới nhau ở một chữ “duyên”. Bất luận là nhân duyên, cơ duyên, thiện duyênđâu đâu cũng có, tồn tại mọi lúc. Nhưng tùy duyên cũng có hai mặttích cực và tiêu cực. Tận tâmhành thiện, không so đo kết quả, được mất, lấy thái độtùy duyên mà đối diện với sự đời, đây chính là tùy duyêntích cực, vừa không cưỡng cầu lại có thể nắm giữ được cơ duyên.
Trái lại, lấy lý dotùy duyên mà không làm tròn bổn phận, phó thác cho số phận, không mong cầu tiến, vươn lên, trốn tránh việc khó thì chính là một dạng cực đoan. Tùy duyên lúc này trở thành cái cớ để người ta biếng lười, phó mặc.
Tùy duyên khác với tùy tiện. Tùy tiện là làm việc qua loa cho xong, được chăng hay chớ, không có nguyên tắc cũng chẳng có lập trường và không chịu trách nhiệm. Tùy duyên là thuận theonhân duyên, nhìn thấu từ đó có được sự ung dunglạc quan và đứng ngoài được mất.
Có trong mình một tâm thái tùy duyên, bạn sẽ nhận ra rằng, bất kể bầu trời là mây đen mù mịt hay là rực rỡ ánh vàng, con đường đời dù là trắc trở, chông gai hay thênh thang muôn lối, thì trong lòng mình luôn có được cảm giácđiềm tĩnh và bình yên.
Tùy duyên là chớ nên cưỡng cầu, nhưng cũng đừng quá buông xuôi, qua loa và cẩu thả. Hãy biết nắm bắt cơ hội, đối nhân xử thế thuận theonhân duyên, ôm giữ trái tim từ bi, khoan dung và độ lượng. Đó mới chính là tùy duyên thật sự.
Xưa có một lão hòa thượng sống trong ngôi chùa cổ trên núi cao. Một ngày kia có vị khách ghé thăm chùa. Người khách biết lão hòa thượng đã tu hànhđắc Đạo, bèn hỏi ông rằng: “Trước khi đắc Đạo, Ngài đã làm những gì?”.
Lão hòa thượngtrả lời: “Ta chẻ củi, gánh nước, nấu cơm”. Người khách hỏi: “Vậy sau khi đắc Đạo thì sao?”. Lão hòa thượng nói: “Ta vẫn chẻ củi, gánh nước, nấu cơm”. Người khách băn khoăn, lại hỏi: “Vậy cái gì gọi là đắc Đạo?”. Lão hòa thượng ôn tồn trả lời: “Trước khi đắc Đạo, lúc chẻ củi thì nghĩ về gánh nước, lúc gánh nước lại nghĩ về nấu cơm, nấu cơm rồi lại lo ngày mai đi chẻ củi, gánh nước. Sau khi đắc Đạo, chẻ củi là chẻ củi, gánh nước là gánh nước, nấu cơm thì là nấu cơm”.
Như thế, nguyên do thực sự của mọi đau khổ, bi ai trên đời chính là do người ta không thể buông bỏ tâm phàm, không thể tùy duyên, tùy phận. Lão hòa thượng trước khi đắc Đạo thì chính là người thường mang nặng tâm phàm, làm gì cũng không thể tùy duyênhành sự, làm việc này lại nhớ việc kia, sống ở hôm nay mà tâm lại nghĩ tưởng ngày mai và quá khứ. Như vậy, chỉ khi đối xử với mọi chuyện một cách ung dung, tự tại, tùy duyên, người ta mới tìm được sự thanh thản đích thực trong tâm hồn.
Chuyện trên đời vốn chẳng bao giờ luôn thuận buồm, xuôi gió. Trời cao không phải ngày nào cũng quang đãng, tạnh mây. Cầu vồng chỉ xuất hiện sau cơn mưa lớn. Ngày vui, ngày buồn chính là đan xen đến với nhau. Đó chính là sự “tùy duyên” của đất trời, của vũ trụ này.
Hiểu được điều ấy thì bạn ắt là thản nhiênđối diện được với đời, gặp chuyện vui cũng không quá phấn khích, trước sự buồn cũng chẳng âu sầu, bi thương vậy.
Ngày nay, thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư, qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm của mỗi người.
Rốt cuộc một mình. Một mình thôi. «Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi... Đời như vô tận. một mình tôi về, một mình tôi về... với tôi!»
Khi tu hành được một thời gian, có người thì ngày càng tăng trưởng đạo lực, Giới - Định - Tuệ thêm lớn nhưng ngược lại có người thì suy giảm, thối thất.
Quán niệm về nhân duyên hình thành đời sống chúng ta, hình thành con người xã hội, hình thành đất nước, và hình thành thế gian. Tất cả cuộc hình thành này đều từ nhân duyên.
Con người từ khi ra đời đã tồn tại “cá nhân” hay “cái tôi”. Thế nên, rất cần phân biệt “cá nhân hay cái tôi là thực kiện” và “cá nhân hay cái tôi do suy tưởng”.
Sau khi Đức BổnSư Thích Ca Mâu Nithành tựuChánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinhVô Ngôn. Cốt lõi của bài kinh là lòng biết ơn.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.