Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiền, cần phải xem chừng cái ta đó.
Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!
Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạo, ngộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.
Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.
Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”
Phật thong thả nói bài kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.
Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.
Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”
Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.
Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.
Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”
Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:
Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.
Dịch:
Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.
Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật Ấn. Thiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.
Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?
Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngã, cuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.
Có câu chuyện, Tôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”
Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”
Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”
Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”
Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.
Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.
Trong kinh, Phật thường dạy:
“Năm uẩn là vô ngã. Sắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”
Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.
Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.
Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.
Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhau, đến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.
(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)
Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiền, cần phải xem chừng cái ta đó.
Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!
Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạo, ngộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.
Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.
Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”
Phật thong thả nói bài kệ:
Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.
Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.
Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”
Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.
Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.
Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”
Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:
Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.
Dịch:
Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.
Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật Ấn. Thiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.
Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?
Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngã, cuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.
Có câu chuyện, Tôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”
Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”
Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”
Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”
Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.
Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.
Trong kinh, Phật thường dạy:
“Năm uẩn là vô ngã. Sắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”
Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.
Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.
Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.
Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhau, đến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.
(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)