Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cái Thấy Của Bậc Vào Dòng

11 Tháng Mười Một 202213:10(Xem: 1504)
Cái Thấy Của Bậc Vào Dòng
Cái Thấy Của Bậc Vào Dòng

Thích Nguyên Hùng

hinh phat 9


Vào dòng tức Nhập lưu hay Dự lưu, là từ dòng đời bước vào dòng Thánh, từ địa vị phàm phu bước lên địa vị Thánh hiềnvĩnh viễn không còn rơi vào ba đường ác địa ngụcngạ quỷsúc sinh. Đây là Thánh quả đầu tiên trong bốn Thánh quả mà người học Phật đạt được và chỉ duy nhất giáo pháp của Phật mới có khả năng đưa tới thành tựu Thánh quả này mà thôi. 


Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu không có tám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Trong giáo pháp nào có tám Thánh đạo thời ở đó có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư. Nay trong giáo pháp này có tám Thánh đạo nên có quả vị Sa-môn thứ nhất, quả vị Sa-môn thứ hai, thứ ba, thứ tư. Trong các chúng ngoại đạo không có.”1 

Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư chính là Tứ thánh quả Dự lưu (Tu-đà-hoàn), Nhất lai (Tư-đà-hàm), Bất lai (A-na-hàm) và Vô sinh (A-la-hán). Bài viết này sẽ dưới thiệu về cái thấy của bậc thánh Dự lưu

Định danh 

Dự lưu (Srotāpanna, Tu-đà-hoàn), còn gọi là Nhập lưuNghịch lưu, là quả vị đầu tiên trong bốn Thánh quả và là giai vị đầu tiên trong 18 giai vị hữu học. Dự lưu là dự vào dòng Thánh vô lậu. Vì đi ngược dòng đời, vốn cuồn cuộn cuốn trôi và nhấn chìm chúng sinh trong trầm luân sinh tử như dòng thác dữ cuốn trôi và nhấn chìm cành củi mục, nên còn gọi là Nghịch lưu. Là quả vị đầu tiên trong dòng Thánh nên còn gọi là Sơ quả. Người hướng tới quả này, trong giai đoạn dứt trừ kiến hoặc của 15 tâm Kiến đạo, gọi là Nghịch lưu hướng, cũng gọi Dự lưu hướng, tức là nhân vị của quả Dự lưu. Theo Huyền ứng âm nghĩa, quyển 23: “Tất cả Thánh đạo gọi là Lưu (dòng chảy), vì hay nối nhau xuôi tới Niết-bàn”.  


Những điều kiện nhập dòng 

Một thời, Đức Thế Tôn cùng đại chúng ngự đến thôn Na-đà. Bấy giờ, tại thôn Na-đà có nhiều cư sĩ mạng chungTôn giả A-nan không biết họ sinh về đâu, bèn đến xin Phật chỉ dạy. Đức Phật dù quở trách A-nan, rằng “phàm có sinh thì có chết, đó là lẽ thường của cuộc đời, có gì là quái lạ”, vẫn cho biết những người đã đoạn năm hạ phần kết mệnh chung sinh thiên, họ nhập Niết-bàn ở đó chứ không trở lại cõi này nữa; những người do đoạn trừ ba kết sử, dâm, nộ, si mỏng, đắc quả Tư-đà-hàm, sẽ trở lại cõi này một lần để dứt hết gốc khổ; những người do đoạn trừ ba kết sử, đắc quả Tu-đà-hoàn, không còn bị đọa vào ác thúchắc chắn Thánh đạo, chỉ trở lại cõi này bảy lần để dứt hết gốc khổ. Rồi Đức Phật dạy, “Này A-nan, nay Ta sẽ nói cho ngươi về Pháp kính để các Thánh đệ tử biết chỗ thọ sinh, dứt hết ba đường dữchứng quả Tu-đà-hoàn, không quá bảy đời sẽ tận cùng biên tế của khổ, và cũng có thể nói việc ấy cho người khác nghe”2


Bốn niềm tin không lay chuyển 

Pháp kính là gương pháp, tức là nhìn vào pháp mà một người Phật tử áp dụngthực hànhtu tập trong cuộc sống hàng ngày thì sẽ thấy được hướng đi của cuộc đời mình, sẽ biết thú hướng tái sinh, sẽ biết mình sẽ đi về đâu, thác sinh vào cảnh giới nào. Nếu nhìn vào cuộc sống của người Phật tử, hay người Phật tử tự nhìn vào cuộc sống của chính mình, thấy có bốn niềm tin bất hoại, không lay chuyển, trọn đời trung kiên với đạo pháp, cho dù mặt trờimặt trăng có rơi rụng thì bốn niềm tin đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới không lay động… thì biết chắc chắn người đó đã dự vào dòng Thánh. Kinh ghi: “Này A-nan! Pháp kính là, Thánh đệ tử đã đạt được bất hoại tín, hoan hỷ tin Phật là Đức Như LaiVô Sở TrướcĐẳng Chánh Giác, mười đức hiệu đầy đủ. Hoan hỷ tin Pháp là giáo pháp chân chính vi diệuPhật tự ý nói ra, không cuộc hạn thời tiết, dạy bày con đường đi đến Niết-bàn; được thực hành bởi kẻ trí. Hoan hỷ tin Tăng là chúng khéo hòa đồng, sở hành chất trực không dối trá và chứng thành đạo quả, trên dưới thuận hòa, đầy đủ pháp thân, hoặc có người đang hướng tới Tu-đà-hoàn và được quả Tu-đà-hoàn, có người đang hướng tới Tư-đà-hàm và được quả Tư-đà-hàm, có người đang hướng tới A-na-hàm và được quả A-na-hàm, có người đang hướng tới A-la-hán và được quả A-la-hán. Ấy là bốn đôi tám bậc, chúng Hiền thánh của Như Lai, xứng đáng được cung kính, làm ruộng phước cho đời. Tin giới của Hiền thánh là thanh tịnh, không nhơ, không bị sứt mẻ, không rò rỉ, được các bậc minh triết tu theo mà chứng đến tam-muội định vậy. A-nan, đó là Pháp kính, khiến Thánh đệ tử biết chỗ thọ sinh, dứt sạch ba đường dữchứng đắc Tu-đà-hoàn, không quá bảy đời hoàn tất tận cùng biên tế của khổ; và cũng có thể nói cho người khác sự việc ấy”3


Như vậy, đối với hàng Phật tử tại gia chỉ cần thành tựu Tứ bất hoại tín là đã có thể vào dòng, đã có thể bước ra khỏi dòng đời ô trược, khổ đau, đắm chìm... để dự vào dòng Thánh, qua lại trời người và tiếp tục tu tập tối đa bảy lần là chấm dứt sinh tử, cho nên quả vị này còn gọi là Thất lai.  

Tứ dự lưu chi 

Tuy nhiên, cho dù người Phật tử đã quy y Tam bảo và phát nguyện thọ trì năm giới, nhưng không phải ai cũng thành tựu được bốn niềm tin không lay chuyển. Cho nên, để hướng đến Dự lưu quả, người Phật tử cần phải thực tập Tứ dự lưu chi. Đó là bốn yếu tố Thân cận thiện sĩ, Thính văn Chánh pháp, Như lý tác ý và Pháp tùy pháp hành. Nói cách khác, nếu không gần gũi thầy lành, bạn tốt để nghe và học Chánh pháp rồi tư duynghiền ngẫm chân lý để ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày thì niềm tin khó được nuôi dưỡng. Kinh Tăng chi cho biết “Này các Tỷ-kheo, tín lực cần phải thấy ở đâu? Trong bốn Dự lưu chi phần”4. Do vậy, gần gũi với những người có nhân cách, phẩm chất, trí tuệ cao thượng (thân cận thiện sĩ) để được nghe và được học, để hiểu biết những giá trị cao thượng mà người cư sĩ tại gia dù ở bất cứ địa vị nào trong xã hội cũng không thể tìm thấy trong những thú vui ngũ dục (thính văn Chánh pháp), để rồi từ đó suy ngẫm một cách sâu sắc, chân chánh (như lý tác ý) và thể nghiệm trong đời sống hàng ngày (pháp tùy pháp hành) là điều cần và đủ cho niềm tin bất hoại, ở trong thánh đạo gặt hái được nhiều thiện lợi, có thể (tái sinh) đến chỗ mình muốn, có thể giải thoát, có thể chứng đắc và cũng có thể tự tác chứng5.  


Đoạn ba kiết sử 

Nói một cách đơn giản, một người Phật tử sau khi quy y Tam bảo và thọ trì năm giới mà có thể giữ trọn niềm tin trọn vẹnthanh tịnhthỉnh thoảng đi chùa thân cận Tăng Nihộ trì Tam bảotụng kinhsám hốinghe pháptham dự khóa tu… để nuôi dưỡng niềm tintăng thượng tín, đến cuối cuộc đời thì coi như đã thành tựu Tứ dự lưu chi và Tứ bất hoại tín. Người đó đã đủ điều kiện Dự lưu. Nhờ thực tập đời sống như vậy mà họ cũng đoạn được ba kiết sử là thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Kinh ghi: “Những ai tin tưởng Phật không có thối chuyểntin tưởng Pháp không có thối chuyểntin tưởng Tăng không có thối chuyển, đầy đủ giới hạnh khiến bậc Thánh hoan hỷ, tất cả những vị được hóa sanh được Chánh pháp hướng dẫn, những vị này đều diệt trừ ba kiết sửchứng quả Dự lưu, không còn đọa vào ác thúchắc chắn đạt đến chánh giác”6


Thân kiến còn gọi là ngã kiến (atma-dṛṣṭi), là nhận thức sai lầm về bản thân mình, là chấp ngãCon người do năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức giả hợp mà thành, nhưng con người lại chấp có thật ngã như một chủ tể thường hằng, là thân kiến. Có ba loại ngã chấp: thô phù ngã chấp, ý sở thành ngã chấpvô sắc ngã chấp. Có sắc, do bốn đại hình thành, do đoàn thực nuôi dưỡng là thô phù ngã chấp. Có sắc, do ý sở thành, đầy đủ chi tiết lớn nhỏ, các căn đầy đủ, là ý sở thành ngã chấp. Không có sắc, do tưởng sở thành là vô sắc ngã chấpĐức Phật thuyết pháp là để diệt trừ những ngã chấp ấy. Nếu người nào thực hành theo pháp này thời nhiễm pháp được diệt trừtịnh pháp được tăng trưởng, và ngay hiện tại, tự mình giác ngộ, với thắng trí, chứng đạt và an trú trí tuệ sung mãnquảng đại7

Nghi là nghi ngờdo dự, không quyết định. Đối với chân lý mà Phật đã chứng ngộthuyết giảng vẫn còn tâm nghi ngờdo dự, cho nên không nỗ lực tu tậphành trì, làm chướng ngăn thiện nghiệp, đó là tâm nghi. Ngay khi người Phật tử chánh tín Tam bảo thì tâm nghi ngờ này đã được diệt trừ

Giới cấm thủ nói đủ là giới cấm thủ kiến, tức là những nhận thứchiểu biết sai lầm về những giới cấm, cho rằng nhờ giữ giới ấy mà được thanh tịnh, được sinh thiênđược giải thoát tội lỗi, như cẩu giới (giới sống như con chó), ngưu giới (giới sống như con trâu)… Ở đây chủ yếu nói đến những giới cấm của ngoại đạo

Ba kiết sử trên đây sẽ được đoạn trừ nhờ thực hành Tứ bất hoại tín, nhưng cũng có thể đoạn trừ nó bằng tri kiến, tức bằng nhận thức, thấy biết như thật về Tứ diệu đế. Kinh ghi “Người nào như lý tác ý: ‘Đây là khổ’, như lý tác ý: ‘Đây là khổ tập’, như lý tác ý: ‘Đây là khổ diệt’, như lý tác ý: ‘Đây là con đường đưa đến khổ diệt. Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệtthân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ”8

Cái thấy của bậc vào dòng 

Do tri kiến mà đoạn trừ các lậu hoặc, và tri kiến đó chính là tri kiến về Bốn sự thật, cho nên quả vị Dự lưu còn được biết đến là giai vị Kiến đạo


Kiến đạo, darśana-mārga hoặc dṛṣṭi-mārga, nói đơn giản là thấy đạo. Thấy đạo là thấy chân lý, tức thấy Bốn sự thật, thấy Tứ diệu đế. Một khi thấy được chân lýquán sát Bốn sự thật thì phiền não sẽ rơi rụng, gọi là Kiến sở đoạn (darśana-prahātavya), tức là những phiền não này sẽ được đoạn trừ khi hành giả thấy chân lý (kiến đế). Đây là giai đoạn đầu tiên hành giả thấy Thánh đạo vô lậu mà nhập vào dòng Thánh, cho nên cũng gọi là Kiến đế đạo, tức là quả vị Dự lưu hướng, cũng gọi là Sơ địa Bồ-tát. Để đạt đến giai vị này hành giả phải trải qua bảy giai đoạn tu tập (thất phương tiện), đến giai đoạn Thế đệ nhất pháp không gián đoạn mới bắt đầu nhập vào Thánh vị Kiến đạo, từ đó dùng chân trí vô lậu để đoạn 88 sử kiến hoặc để chứng đắc Thánh quả. Như vậy, Kiến đạocụ thể là thấy được những gì để rồi từ đó thoát khỏi thân phàm, chứng Thánh vị? 

Bảy phương tiện nhập dòng 

Trước hết là thấy bản chất hư huyễn và bất tịnh của chính bản thân mình, cái thấy đưa tới sự dừng lại mọi tham muốn dục vọng thấp hèn (quán bất tịnh)9, khơi dậy tâm yêu thương (quán từ bi)10, bởi thấy mối liên hệ của cuộc cộng sinh sinh tồn (quán duyên khởi)11, tuyệt đối không tồn tại một cái ngã riêng biệt, tự sinh, tự tồn (quán giới phân biệt)12, để rồi ngồi lặng yên mà thở, cho thân tâm lắng đọng, bất bạo động (quán sổ tức)13. Kinh điển gọi những cái thấy này là ngũ đình tâm quán. Từ những cái thấy cơ bản này, hành giả tiếp tục quán chiếu để thấy thân bất tịnh, các thọ là khổ, tâm vô thường, các pháp vô ngã14 để đối trị những cái thấy điên đảo thường, lạc, ngã, tịnh và trực ngộ hết thảy các pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, vô ngã!15 

Ba phương pháp tu tập trên đây gọi là tam hiền, tức ba giai vị tu hành các thiện căn để ức chế phiền não, khiến cho tâm được điều hòa. Tiếp theo tam hiền là tứ thiện căn, tức bốn giai vị noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất pháp.16 


Noãn là hơi ấm, đó là giai đoạn hành giả tiếp xúc được hơi ấm của trí tuệ vô lậu. Nghĩa là trí tuệ vô lậu chưa thực sự phát sinh nhưng đã tỏa ra hơi ấm có khả năng tiêu trừ phiền nãoThí dụ như khi lấy hai viên đá đánh vào nhau để lấy lửa, trong lúc lửa chưa phát sinh thì chỗ hai viên đá đánh vào nhau đã nóng trước, hơi nóng đó gọi là noãn. Cũng vậy, khi hành giả quán chiếu thân bất tịnh, dù trí tuệ vô lậu ly dục chưa phát sinh nhưng cũng đủ để làm cho tâm tham dục nguội lạnh. Các phiền não khác cũng thế, sẽ bị muội lược đi, yếu đi và rồi sẽ bị đốt sạch. 
Đảnh là đảnh núi được tạo nên bởi bên này là noãn vị, bên kia là nhẫn vị. Đó là vị trí thấy rõ Bốn sự thật giữa cuộc đời, như đứng trên núi cao có thể nhìn thấy rõ ràng bốn phương. 

Nhẫn là nhận biết Bốn sự thật có ý nghĩa vô cùng thù thắng. Từ địa vị này trở đi hành giả thẳng tiến đến Niết-bàn, không còn thối lui nữa. 

Thế đệ nhất pháp (lankikàgra-dharma) là giai vị tột cùng của trí hữu lậu, là pháp thù thắng nhất trong tất cả pháp thế gianHành giả đến đây đã có thể nương vào định vô gián mà phát trí như thật thượng phẩm, quán thấy mọi pháp đều duyên sinh vô ngã, những gì cả đời người tìm kiếm, nắm bắt… đều trở thành hư vô để vào thẳng địa vị Kiến đạo. Giai vị này từ Nhẫn vị mà tiến lên, qua giai vị này thì chỉ trong sát-na kế tiếp là tiến vào Kiến đạo, cho nên được gọi là pháp bậc nhất trong các pháp hữu lậu thế gian. Luận Câu-xá, quyển 23, ghi: “Pháp này là pháp hữu lậu nên gọi là thế gian, là pháp tối thắng nên gọi là Đệ nhất. Pháp hữu lậu này thù thắng nhất trong pháp thế gian, cho nên gọi là Thế đệ nhất pháp”17

Trên đây là bảy phương tiện vào dòng, bao gồm tam hiền và tứ thiện căn. Nếu người Phật tử chỉ có niềm tin bất hoại với Tam bảo và Thánh giới thì dự vào dòng Thánh nhưng trí vô lậu khó phát sinh. Nhưng nếu người Phật tử thực tập tăng thượng tín bằng Tứ dự lưu chi, như lý tác ý hiện quán Tứ diệu đế thì trí vô lậu sẽ phát sinh. Đây mới thực sự là trụ ở địa vị Kiến đạo

Hai loại trí vô lậu 

Theo luận Câu-xá, khi đến giai vị Kiến đạo thì có hai loại trí vô lậu phát sinh, đó là pháp trí và loại tríPháp trí (dharma-jñāna) chính là trí vô lậu phát sinh trong quá trình quán sát Bốn sự thật ở Dục giới. Nói cách khác, trí vô lậu duyên theo lý của Tứ đế ở cõi Dục mà đoạn trừ phiền não ở cõi này, gọi là Pháp tríLoại trí (anvaya-jñāna) là trí tuệ vô lậu quán sát Tứ đế ở cõi Sắc giới và Vô sắc giới, tức là nơi Khổ đế quán Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã; nơi Tập đế quán Tập, Nhân, Sanh, Duyên; nơi Diệt đế quán Diệt, Tĩnh, Diệu, Ly; nơi Đạo đế quán Đạo, Như, Hành, Xuất, tổng cộng gồm 16 hành tướng


Pháp trí và Loại trí lại phân thành hai loại là Nhẫn và Trí. Nhẫn là trí tuệ tín nhẫn lý Tứ đế, có tác dụng đoạn hoặc. Trí là trí tuệ có khả năng chứng lý Tứ đế, có tác dụng chứng lý. 

Nhẫn vị còn gọi là Vô gián đạo. Trí vị còn gọi là Giải thoát đạoVô gián đạo có nghĩa là trong từng sát-na hiện tại có khả năng đoạn trừ phiền nãoGiải thoát đạo là giai vị chứng đắc chân lý sau khi đã đoạn trừ phiền não.  

Do vì mỗi đế đều có Pháp trí và Loại trí, nên tổng cộng Tứ đế gồm có 16 tâm hay 16 hành tướng quán sát Tứ đế. Trong đó, Khổ pháp trí nhẫn và Khổ pháp trí đều nhờ quán sát Khổ đế ở Dục giới mà thành tựu. Tức là, ở giai vị Nhẫn đoạn trừ được 10 kiến hoặc mà thành tựu trí chứng chân lý Khổ đế. Còn Khổ loại trí nhẫn và Khổ loại trí là quán sát Khổ đế ở Sắc giới và Vô sắc giới, cùng đoạn trừ 18 loại kiến hoặc mà chứng đắc lý Khổ đế ở thượng giới (tức Sắc và Vô sắc giới). Tập pháp trí nhẫn và Tập pháp trí là quán Tập đế ở Dục giới, đoạn trừ 7 loại kiến hoặc, chứng lý Tập đế ở cõi này. Tập loại trí nhẫn và Tập loại trí là quán Tập đế ở Sắc giới và Vô sắc giới, đoạn 22 loại kiến hoặc, đồng chứng lý Tập đế ở hai cõi này. Diệt pháp trí nhẫn và Diệt pháp tríDiệt loại trí nhẫn và Diệt loại trí cùng với Đạo pháp trí nhẫn và Đạo pháp tríĐạo loại trí nhẫn và Đạo loại trí đều cùng quán Diệt đế và Đạo đế ở Dục giới và hai cõi thượng giới

Trí vô lậu là trí dứt trừ phiền não trong 3 cõi Dục, Sắc và Vô sắc nhờ hiện quán Tứ đếHiện quán là phương pháp nhận thức trực tiếp, nhìn thẳng bản chất của các pháp thông qua thiền định, chứ không qua các khái niệm ngôn ngữ, văn tự, khiến cho chân lý trực tiếp hiện bày ở trước mặt, gọi là Thánh đế hiện quán. Theo luận Câu-xá, quyển 23, phẩm Hiền thánhhành tướng của 16 tâm hiện quán Tứ đế như sau: 

1. Khổ pháp trí nhẫn (duḥkhe dharma-jñāna-kṣāntiḥ): Hiện quán khổ đế ở cõi Dục, dứt trừ kiến hoặc mê lầm nơi những sự thật nỗi khổ, niềm đau. Cụ thể, nơi Khổ đếchúng sinh cõi Dục có 10 sử kiến hoặc là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiếnbiên kiếnthủ kiếngiới cấm thủ kiếntà kiến. Nhẫn tức là tin. Trí là tin vào lý mà không nghi ngờ; trí này là nhân để đạt được Khổ pháp trí, cho nên gọi là Khổ pháp trí nhẫn

2. Khổ pháp trí (duḥkhe dharma-jñānam): Hiện quán Khổ đế ở cõi Dục, ấn chứng lý Khổ đế. Nói cách khác, đây là trí vô lậu do quán xét Khổ đế ở cõi Dục, đoạn được 10 sử kiến hoặc nêu trên mà chứng được.  

3. Tập pháp trí nhẫn (samudaye-dharma-jñānam-kṣāntiḥ): Hiện quán Tập đế ở cõi Dục, đoạn trừ kiến hoặc mê lầm nơi các nguyên nhân dẫn tới khổ đau, đó là 7 sử kiến hoặc tham, sân, si, mạn, nghi, thủ kiếntà kiến.  

4. Tập pháp trí (samudaye-dharma-jñānam): Hiện quán Tập đế ở cõi Dục, ấn chứng lý Tập đế đã đoạn hết 7 sử kiến hoặc nêu trên.  

5. Diệt pháp trí nhẫn (nirodhe dharma-jñāna-kṣānti): Hiện quán Diệt đế ở cõi Dục, đoạn trừ kiến hoặc mê lầm nơi Diệt đế, đó là 7 sử kiến hoặc tham, sân, si, mạn, nghi, thủ kiếntà kiến.  

6. Diệt pháp trí (nirodhe dharma-jñānaṃ): Hiện quán Diệt đế ở cõi Dục, ấn chứng lý Diệt đế đã đoạn trừ hết 7 sử kiến hoặc nêu trên.  

7. Đạo pháp trí nhẫn (mārga dharma-jñāna-kṣānti): Hiện quán Đạo đế ở cõi Dục, đoạn trừ kiến hoặc mê lầm nơi Đạo đế, đó là 8 sử kiến hoặc tham, sân, si, mạn, nghi, thủ kiếntà kiếngiới cấm thủ kiến

8. Đạo pháp trí (mārga dharma-jñāna): Hiện quán Đạo đế ở cõi Dục, ấn chứng lý Đạo đế đã đoạn hết 8 sử kiến hoặc nêu trên.  

9. Khổ loại trí nhẫn (duḥkhe’nvaya-jñāna-kṣāntiḥ): Hiện quán Khổ đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắc, đoạn trừ kiến hoặc đối với Khổ đế, đó là 9 sử kiến hoặc tham, si, mạn, nghi, thân kiếnbiên kiếnthủ kiếngiới cấm thủ kiếntà kiến.  

10. Khổ loại trí (duḥkhe’nvaya-jñānam): Hiện quán Khổ đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắcấn chứng lý Khổ đế đã đoạn hết 9 sử kiến hoặc nêu trên.  

11. Tập loại trí nhẫn (samudaye ‘nvaya-jñānakṣāntiḥ): Hiện quán Tập đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắc, đoạn trừ kiến hoặc đối với Tập đế, đó là 6 sử kiến hoặc tham, si, mạn, nghi, thủ kiếntà kiến

12. Tập loại trí (samudaye ‘nvaya-jñānaṃ): Hiện quán Tập đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắcấn chứng lý Tập đế đã đoạn trừ hết 9 sử kiến hoặc nêu trên.  

13. Diệt loại trí nhẫn (nirodhe ‘nvaya-jñāna-kṣānti): Hiện quán Diệt đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắc, đoạn trừ kiến hoặc đối với Diệt đế, đó là 6 sử kiến hoặc tham, si, mạn, nghi, thủ kiếntà kiến

14. Diệt loại trí (nirodhe ‘nvaya-jñāna): Hiện quán Diệt đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắcấn chứng lý Diệt đế đã đoạn hết 6 sử kiến hoặc nêu trên. 

15. Đạo loại trí nhẫn (mārga-anvaya-jñāna- kṣānti): Hiện quán Đạo đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắc, đoạn trừ kiến hoặc đối với Đạo đế, đó là 7 sử kiến hoặc tham, si, mạn, nghi, thủ kiếntà kiếngiới cấm thủ kiến.  

16. Đạo loại trí (mārga-anvaya-jñāna): Hiện quán Đạo đế ở 2 cõi Sắc, Vô sắcấn chứng lý Đạo đế đã đoạn hết 7 sử kiến hoặc nêu trên.  

Như vậy, cái thấy của bậc vào dòng là thấy rõ Bốn sự thật đủ làm rơi rụng 88 kiến hoặc khiến chúng sinh không thấy được chân lý mà từ đó trôi lăn trong sinh tử luân hồiKiến hoặc (darsana-mārga-prahātavyānuśaya) là những nhận thức, những hiểu biết sai lầm về chân lý. Các phiền não này sinh khởi ở nơi tâm do sự dẫn dắt của tà sư, tà giáo18, gọi là phân biệt khởi; hoặc thuộc về mê lý, chấp lý Tứ đế, không chịu nhận chân sự thật19… Khác với Tu hoặc, là những phiền não tiềm phục trong tâm chúng sinh, theo chúng sinh từ đời này qua đời khác, gọi là câu sinh khởiTu hoặc chỉ được đoạn trừ khi hành giả vào địa vị Tu đạo.

Tạm kết 

Nói tóm lại, có rất nhiều cách để một chúng sinh phàm phu rũ bỏ thân phận hèn mòn, suốt đời đi làm thuê, ở mướn như gã Cùng Tử, để bước lên ngôi vị cao sang, dự vào dòng Thánh, vĩnh viễn thoát ly ba đường ác, không còn bị đọa lạcchắc chắn hướng đến Chánh giác. Cách dễ nhất là thành tựu Tứ bất hoại tínthâm tín Tam bảo và giữ tròn năm giới. Nếu được, và tất nhiên là sẽ được, vì không khó gì khi gần gũi thầy lành bạn tốt để được nghe, được học Chánh pháp; để tư duy nghiền ngẫm cuộc đời theo cách như lý tác ý trong cuộc sống thường tình, tức là tăng thượng tín bằng Tứ dự lưu chi. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta đang tiếp xúc, đang đối diện với sự thật. Hãy như lý tác ý! Để thấy khổ, nguyên nhân của khổ; hạnh phúc và phương pháp đạt được hạnh phúc. Đó là tri kiến như thật về Tứ diệu đế, ba kiết sử sẽ được đoạn trừ. Đó cũng là cách Dự lưu. Cách khó hơn, tu tập tam hiềntứ thiện căn, thấy nhiêu khê như trình bày trên, vẫn không ngoài thấy biết như thật về Bốn sự thật. Đó là cách làm cho trí vô lậu phát sinh, thẳng tiến đến Niết-bàn. 

“Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích”20. Đạo lộ Dự lưu cũng thế, đã mở bày nhiều phương tiện. Hãy tùy theo khả năng của mình mà chuẩn bị hành trang dự vào dòng Thánh. Hành trang đó đôi khi chỉ cần mỗi buổi sáng thức dậy nghiêm thân, kính cẩn đối trước Tam bảo mà khấn nguyện rằng: “Nay con xin quy y Phậtquy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tam bảo chấp nhận cho con làm cư sĩthọ trì năm giới, từ nay cho đến mạng chungtrọn đời quy ngưỡng".
 
Thích Nguyên Hùng
Thư Viện Hoa Sen
___________________________
(1) Trường A-hàm, kinh Du hànhHòa thượng Tuệ Sỹ dịch. 
(2) Kinh dẫn thượng. 
(3) Kinh dẫn thượng. 
(4) Tăng chi bộ, chương Năm pháp, phẩm Sức mạnh, (V) (15) Cần phải thấy, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. 
(5) Tăng chi bộ, chương Chín pháp, phẩm Chỗ cư trú của hữu tình, (VII) (27) Sợ hãi hận thù. Xem thêm: Pháp uẩn túc luận, ĐTK/ĐCTT, T.26, N°.1537. 
(6) Trường bộ 18, kinh Xa-ni-sa, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. 
(7) Trường bộ 9, kinh Potthapàda, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch. 
(8) Trung bộ 2, kinh Tất cả các lậu hoặcHòa thượng Thích Minh Châu dịch. 
(9) Quán bất tịnh (aśubhā-smṛti) với mục đích đoạn trừ tâm tham dục, thường quán 9 giai đoạn phân hủy của tử thi, gọi là cửu tưởng quán
(10) Quán từ bi (maitrī-smṛti), mục đích đối trị sân hận, thường nghĩ tưởng đến hạnh nguyện ban vui, bớt khổ cho chúng sinh
(11) Quán duyên khởi (idaṃpratyayatā-pratītyasamu-tpāda-smṛti), quán chiếu 12 nhân duyên để đối trị ngu si
(12) Quán giới phân biệt (dhātu-prabheda-smṛti), quán 18 giới, tất cả các pháp không ngoài 6 giới đất, nước, gió, lửa, không và thức hòa hợp mà thành, nhằm đối trị tâm chấp ngã
(13) Quán sổ tức (ānāpāna-smṛti), quán hơi thở ra vào để đối trị tâm tán loạn
(14) Gọi là Biệt tướng niệm trụ (vyasta-lakṣaṇa-smṛtyupasthāna), tức tu Tứ niệm xứ
(15) Gọi là Tổng tướng niệm trụ. 
(16) Đại thừa nghĩa chương, quyển 7. ĐTK/ĐCTT, T.44, p.789b. 
(17) ĐTK/ĐCTT, T. 25, N°. 1558, p. 0119b10. (18) Theo quan điểm của các nhà Duy thức thông. 
(19) Theo quan điểm của các nhà Câu-xá tông
(20) Trung bộ 3, Kinh Thừa tự phápHòa thượng Thích Minh Châu dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 257)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 639)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 931)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1176)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant