Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Saturday, November 19, 202205:35(View: 2519)
Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

Nguyễn Thế Đăng

Triết Lý Hành Động Trong Đạo Phật

 

1/ Thế giới là môi trường thực hành hạnh Bồ tát

Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong chuyện tiền thân thứ nhất Chuyện Pháp Tối thượng (Kinh Tiểu Bộ III) như sau:

Này gia chủ: Chính vì mục đích loại bỏ các nghi nan ở đời, nhờ sự thực hành trọn vẹn mười hạnh Ba la mật trải vô lượng kiếp mà Ta chứng đắc Nhất thiết trí. Hãy cẩn thận lắng tai nghe, như thể các ông đang đổ tủy của sư tử vào một cái ống bằng vàng”.

Sau khi kể câu chuyện tiền kiếp, “Ngài nhận diện tiền thân như sau:

Trong thời ấy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si là Đề Bà Đạt Đatùy tùng của kẻ ấy là tùy tùng của Đề Bà Đạt Đa. Còn người chủ đoàn lữ hành hiền trí là Ta, và tùy tùng của người chủ đoàn lữ hành hiền trí là tùy tùng của đức Phật bây giờ vậy”.

Đối với một người sống với ý nguyện hoàn thiện cho mình và cho người khác thì mỗi cuộc đời, dầu thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều là những cơ hội để học tập và tiến bộ trên con đường đến sự hoàn thiện rốt ráo ấy.

“Loại bỏ các nghi nan” cho mình, đó là tu tập trí huệ. “Loại bỏ các nghi nan cho người khác (ở đời)”, đó là tâm từ bi. Trí huệ phối hợp với từ bi là con đường Bồ tát. Mười Ba la mật là Bố thíGiữ giới, Nhẫn, Tinh tấn, Thiền, Trí huệPhương tiện, Nguyện, Lực, và Trí. Mười Ba la mật là trí huệ và từ bi để “tự giác, giác tha”, và khi nào đầy đủ, trọn vẹn thì thành Phật, “giác hạnh viên mãn”.

Trong tất cả các câu chuyện tiền thân dù khi làm người cao sang như làm vua, Đế Thíchcho đến người lái buôn, người cày ruộng…, thậm chí làm thú vật như nai, voi, khỉ, sư tử… bao giờ cũng cho thấy Bồ tát là người “khôn ngoan”, nhiều “phước đức” (vì thường làm vua loài ấy), và luôn luôn giúp đỡ, cứu giúp, bảo vệ loài chung quanh bằng sự khôn ngoan và phước đức của mình. Đó là trí huệ (khôn ngoan) và từ bi (cứu giúp), tự giác và giác tha, hai yếu tố song hành trên đường Bồ tát.

Thế giới này là môi trường để thực hành hạnh (hạnh: hành động) Bồ tát trải qua nhiều đời.

Chẳng hạn như chuyện số 37, Chuyện Con Chim Trĩ, bậc Đạo sư nhận diện tiền thân như sau:

Thời ấy, con voi là Mục Kiền Liên, con khỉ là Xá Lợi Phất và con chim trĩ là Ta vậy”.

Những nhân duyên thầy trò và các mối liên hệ khác, dù ở trong các loài vật, cũng đã có sự nối kết từ rất xa xưa. Bồ tát là người mở rộng sự nối kết, từ những liên hệ nhỏ, đến nối kết với vũ trụ và chúng sanh bằng trí huệ và từ bi.

2/ Thực hành trí huệtừ bi và công đức

Trí huệ:

Trí huệ là trí huệ thấu suốt tánh Không, do đó giải thoát. Theo Kinh Kim Cương Năng Đoạn (Trí huệ như kim cương cắt đứt tất cả), trí huệ tánh Không là thấu đạt “không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả”.

Thực tại thì không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng. Không bị bốn tướng đó ngăn che, chia cắt, phân mảnh nên thực tại vốn là tự do giải thoátThực tại là tánh Không.

Nhưng người ta không chỉ đạt đến thực tại bằng cách ngồi thiền bất động, mà còn bằng cách hoạt động trong thế gian (hậu thiền định), trực tiếp chạm mặt và hành động trong sắc thanh hương vị xúc pháp để thấy bản tánh của chúng là tánh Không (Bát Nhã Tâm Kinh). Kinh Kim Cương Năng Đoạn nói người ta thấy biết và chứng ngộ tánh Không khi thực hành các ba la mật trong thế gian. Chẳng hạn như thực hành bố thí ở giữa đời:

Tu Bồ Đề! Bồ tát ở nơi pháp hãy không chỗ trụ mà hành bố thí. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp mà bố thí.

Tu Bồ Đề! Bồ tát nên như vậy mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì sao thế? Nếu Bồ tát không trụ nơi tướng mà bố thí thì phước đức đó chẳng thể nghĩ lường”.

“Không trụ nơi tướng”, đây là trí huệ tánh Không. “Bố thí”, là hành động của Từ bi. “Phước đức chẳng thể lường”, đó là Công đức. Trong chỉ một hành động bố thí, có đủ ba yếu tố chính yếu của một Bồ tát là Trí huệTừ Bi, và Công đức. Cho nên chính trong hành động ở thế gian mà Bồ tát thực hành Trí huệTừ Bi và Công đức nhập thành một.

Từ bi:

Trong Kinh Đại Bát Nhã, chủ yếu nói về tánh Không, khi nói đến Đức Phật, bao giờ cũng nhắc “bốn vô sở uýbốn vô ngại giải, mười lực, mười tám pháp bất cộngđại từ đại bi”. Từ bi là không thể thiếu ở một vị Phật.

Để biết Bồ tát tiến bộ đồng thời trí huệ và từ bi như thế nào, chúng ta hãy xem vị thánh Bồ tát ở Sơ Hoan Hỷ địa, tức là địa đầu tiên của Mười Địa Pháp thân, trích từ Phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm.

Chư Phật tử! Bồ tát phát khởi những tâm như vậy bèn lấy đại bi làm đầu, trí huệ tăng thượngphương tiện thiện xảoPhật lực là chỗ giữ gìn, sức trí huệ vô ngại hiện tiền…

Phật tử! Bồ tát ban đầu phát tâm như vậy, liền vượt khỏi địa vị phàm phu, nhập vào hàng Bồ tát, sinh vào nhà Như Lai, không ai có thể nói chủng tộc của ngài lỗi lầm, lìa khỏi thế gian, nhập vào đạo xuất thế, được pháp Bồ tát, trụ chỗ của Bồ tát, vào ba đời bình đẳng, ở trong chủng tánh Như Laiquyết định đắc vô thượng giác ngộBồ tát trụ pháp như vậy gọi là trụ Bồ tát Hoan Hỷ địa, vì đã tương ưng với bất động”.

Gọi là địa Hoan hỷ vì Bồ tát đã sanh vào nhà Như Lai tức là vào Pháp thân, ở trong chủng tánh Như Lai là đã ở trong Phật tánhtương ưng với Pháp thân bất độngPháp thân là nền tảng, là con đường để tiến lên giác ngộ vô thượngHoan hỷ vì:

Vì tôi đã chuyển và lìa tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì gần bậc trí huệ mà hoan hỷ, vì dứt tất cả đường xấu ác mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát nên hoan hỷ”.

Tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát là Pháp thân tánh Không của tất cả chư Phật và chư Bồ tát, tánh bình đẳng ấy cũng gồm từ bi, nguyện, hạnh (hạnh: hành động) cứu độ chúng sanh.

Để tiến lên những địa trên, Bồ tát Hoan Hỷ địa có hai động lực lớn nhất là trí tuệ và từ bi:

Xa lìa cái thấy có tôi, không có tưởng về cái tôi, cho nên không sợ chết… Bồ tát này lấy đại bi làm đầu, chí nguyện rộng lớn không có gì ngăn ngại phá hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu”.

Đại bi thì phát sanh đại nguyện: nguyện đối với Phật pháp:

Lại phát đại nguyện: Nguyện lãnh thọ tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật trí, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả các Phật pháp, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Và nguyện đối với chúng sanh:

Lại phát đại nguyện: Nguyện tất cả cõi chúng sanh: có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, trứng sanh, thai sanhẩm thấp sanh, hóa sanh, thuộc về ba cõi nhiếp vào danh sắc, trong sáu loài tất cả chỗ thác sanh, các loài như vậy tôi đều giáo hóa vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ…

Với những lời nguyện như trên, Bồ tát dấn thân vào hành động (hạnh)và như vậy tâm Bồ tát dần dần mở rộng, bao trùm thế giới và chúng sanh. Đây là điều trong các kinh thường nói, “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.

Các lời nguyện này khiến chúng ta nhớ đến những chuyện tiền thân của Phật khi còn làm Bồ tát đã ở trong các loài thế gian mà thực hành mười Ba la mật, tức là trí huệ và từ bi hợp nhất.

“Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ”: hành động trí huệ và từ bi của Bồ tát trải khắp không gian và thời gian, không dừng dứt.

Trí huệ là soi thấu bản chất của sanh tử và chúng sanh, và từ bi là ôm trùm tất cả sanh tử và chúng sanh. Thế nên nếu không có sanh tử và chúng sanh thì cũng không có con đường Bồ tát.

Công đức:

Công đức là do hành động với trí huệ và từ bi tạo thành. Trí huệ phát sanh từ bi và đưa đến hành động bố thí, tức là công đức. Đoạn kinh sau đây cho chúng ta thấy điều này:

Bồ tát Hoan Hỷ địa lại nghĩ rằng: Chánh pháp của chư Phật rất sâu như vậy, tịch tịnh như vậy, tịch diệt như vậy, Không, Vô tướngVô nguyện như vậy, mà hàng phàm phu sa vào tà kiến, bị vô minh che mờ, vào trong đủ thứ phiền não của mười hai duyên sanh… chúng sanh thêm lớn quả khổ, ở trong đây vốn là Không, lìa cái ta và cái của ta, không biết, không giác, không làm, không thọ, như cỏ cây, đá vách, cũng như hình bóng.

Bồ tát thấy chúng sanh tích tập khổ quả như vậy, không thể thoát khỏi, nên phát sanh đại bi trí huệ. Tự nghĩ rằng: tôi phải cứu với tất cả chúng sanh này đặt họ nơi chỗ rốt ráo an vui.  Do suy nghĩ như vậy bèn sanh trí huệ quang minh đại từ.

Chư Phật tử! Đại Bồ tát tùy thuận đại từ đại bi như vậy, dùng tâm sâu nặng trụ Sơ Hoan Hỷ Địa, với tất cả mọi vật không xẻn tiếc, cầu đại trí huệ Phật, tu hạnh đại xả. Phàm những gì mình có, tất cả đều bố thí được…

“Trí huệ quang minh đại từ”, từ bi qua hành động là một thực thể, là ánh sáng (quang minh), và ánh sáng từ bi ấy hợp nhất với trí huệ tánh Không.

3/ Thế gian là nơi học tập và thi thố hạnh Bồ tát

Thế gian là nơi nguy hiểm, khó khăn, đầy dẫy thách thức và cơ hội cho mọi người thực hành hạnh Bồ tát, vì chính nơi ấy mà người ấy chuyển hóa được cái thấy bất tịnh của mình thành cái thấy thanh tịnh, những phiền não trùng điệp của mình thành ánh sáng giác ngộ.

Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Phật đạo nói:

Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Duy Ma Cật: Nếu thấy cái Vô vi (vô sanhtánh Không) mà nhập chánh vị thì không còn có thể phát tâm Bồ đề vô thượng được nữa. Tuy nhiên, người sống giữa những cái hữu vi hợp tạo vô thường, trong những quặng mỏ phiền não, dầu chưa được thấy chân lý, cũng có thể phát tâm Bồ đề.

Ví như chỗ đất cao không thể sanh hoa sen, nơi bùn lầy thấp ướt mới sanh hoa ấy. Như vậy, thấy pháp vô vi rồi nhập chánh vị rốt cuộc chẳng còn sanh những phẩm tính Phật. Trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh khởi lên những phẩm tính Phật. Lại như gieo hạt giống giữa không trung rốt cuộc chẳng sanh được, ở đất phân bùn thì mới tốt tươi.

Như vậy, người vào vô vi chánh vị thì không sanh ra những phẩm tính Phật. Nhưng dù người sanh khởi ngã kiến như núi Tu Di thì vẫn còn có thể phát tâm Bồ đề mà sanh ra những phẩm tính Phật. Thế nên phải biết: Hết thảy phiền não là hạt giống Như LaiVí như không lặn xuống biển cả thì không thể được ngọc quý vô giá, cũng vậy, không vào biển cả phiền não thì không thể được Nhất Thiết Trí quý báu”.

Chính nhờ thực hành hạnh Bồ tát, tức là nguyện hạnh Bồ đề tâm mà Bồ tát có được không chỉ Pháp thân mà còn có Báo thân và Hóa thân để làm việc trong ba cõi thế gian. Và khi thành Phật thì ba thân này được khai mở, phát huy trọn vẹn

 

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 26)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(View: 80)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(View: 144)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(View: 206)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(View: 213)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(View: 279)
Việt Nam là quốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(View: 264)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(View: 469)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(View: 278)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(View: 309)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(View: 327)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(View: 281)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(View: 311)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(View: 302)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(View: 329)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(View: 402)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(View: 439)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(View: 421)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 429)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 388)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 468)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 551)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 742)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 492)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 672)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 887)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 772)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 671)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 700)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 674)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 552)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 608)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 1095)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 797)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 665)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 948)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 1053)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 866)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 933)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 1159)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 1034)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 1168)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 925)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1362)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 1140)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 1036)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 1128)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 1201)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 1072)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1574)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 1115)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 1169)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 1264)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1344)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 1285)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 1139)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 1196)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 1108)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM