Tùy thuộc vào các nguyên nhân mà một hiện tượng khởi sinh. Còn gọi là Lý hay Lý thuyết Duyên Sanh, hay Thập Nhị (12) Nhân Duyên, vì trong thuyết này có 12 yếu tố giáp vòng, vừa là nhân cũng vừa là duyên của nhau (nếu tính “Vô Minh” là một đơn vị nhân duyên - ND).

 1.  Quy luật Duyên Khởi là gì ?

Ở đây, chúng ta dùng tên phổ biến là “Lý Thuyết Duyên Khởi” hay “Lý Duyên Khởi”.

Theo quy luật này, mọi hiện tượng đều mang nguồn gốc của một hiện tượng khác trước nó. Quy luật này có thể được diễn tả một cách vắn tắt, nôm na là: “Vì có/ tùy thuộc vào cái này, nên có cái kia”. Một ví dụ đơn giản về luật Duyên Khởi trong tự nhiên như sau:

 - Vì có mây nên trời mưa.

- Vì trời đã mưa, nên đường trở nên trơn ướt. Vì đường trơn ướt, nên người đi bị ngã.

- Vì người đó bị ngã nên người đó bị thương.

 Ở đây mưa tùy thuộc, là do có mây trên trời. Đường trở nên trơn ướt là do trời mưa xuống.

Sự té ngã của một người là do đường bị trơn ướt. Sự bị thương của người đó là do sự té ngã.

ngược lại:

Nếu không có mây trên trời, thì có lẽ đã không có mưa.

Rồi nếu không có mưa, thì đường có lẽ đã không bị trơn ướt. Rồi nếu đường không bị trơn ướt, thì người đó không té ngã. Và nếu không bị té ngã, thì người đó đã không bị thương.

2.   Luật Duyên Khởi Vận hành như thế nào ?

Trong chuỗi sự kiện xảy ra, chúng ta thấy rằng một sự kiện tùy thuộc vào, là do một sự kiện trước đó xảy ra và tác động làm cho nó khởi sinh; và sau khi khởi sinh, nó lại tác động làm cho sự kiện sau xảy ra. Mỗi hiện tượng tự nhiên xảy ra trên thế gian này có thể được dựa vào một chuỗi tùy thuộc hay phụ thuộc lẫn nhau (tức là không bao giờ xảy ra một cách độc lập). Không có cái gì khởi sinh mà không có nguồn gốc hay nguyên nhân ban đầu của một sự kiện xảy ra trước nó. Sâu hơn, nếu không có một sự kiện xảy ra trước đó tác động hay làm điều kiện cho sự kiện này khởi sinh hay xảy ra, thì sự kiện này cũng không thể xảy ra, và để đến lượt nó tác động hay làm điều kiện cho một sự kiện sau nó xảy ra. Và cũng như vậy, quá trình cứ diễn ra liên tục.

Mọi hiện tượng, sự vật đều có thể được truy nguyên nguồn gốc nơi mà nó khởi sinh theo chiều từ dưới lên và mọi hiện tượng, sự vật cũng đều có thể truy tìm ra hiện tượngsự kiện khác vì nó, tùy thuộc vào nó mà khởi sinh, theo chiều từ trên xuống.

Nói tóm lại, mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều có thể được truy tìm lại nguồn gốc hay nhân của nó trước nó và cũng có thể truy ra hiện tượng sự vật khác là quả khởi sinh ra sau nó do tác động, do duyên của nó.

3.  Câu hỏi về nguyên nhân Đầu Tiên

Ở đây, sự nghi vấn có thể được đặt ra là: “Cái gì là nguyên nhân đầu tiên hay đến khi nào hay chỗ nào là nơi nguyên nhân kết thúc?”

Vào thời nguyên thủymọi người đều quan sát thấy những điều kỳ lạ xảy ra trong tự nhiên và luôn tò mò đi tìm những lời giải thích thỏa mãnTuy nhiên, vì không biết đến Quy Luật Duyên Khởi và vì sợ sệt những thế lực siêu nhiênsiêu thần, nên lẽ (cũng) tự nhiên là họ đã cố gắng giải thích bằng những niềm tin tín ngưỡng vào những vị thần hay nữ thần. Người nguyên thủy tin rằng khi gió nổi lên là vì thần Gió đang giao duyên hay đang chuẩn bị cưới bạn tình. Nếu khoa học chấp nhận kiểu giải thích này và không truy tìm nguyên nhân theo như Luật Duyên Khởi, thì chúng ta chắc đã không biết được gió hay bão (tức là sự chuyển động của không khí) chỉ là do sự chênh lệch về áp suất không khí ở những nơi khác nhau mà thôi.

Những sự giải thích về mê tín hay mang tính hữu thần vốn đã đặt dấu chấm hết cho những câu hỏi hay sự truy tìm một cách khoa học và tự do vào thời nguyên thuỷ. Bởi vì, (lại cũng là nguyên nhân theo lẽ tự nhiên!) lúc đó người ta không còn có thể hỏi được, ai tạo ra Thần Gió hay tùy thuộc vào cái gì hay do đâu mà có thần Gió. Ở đây, có nghĩa là câu hỏi này đã tuyệt đối ở quá xa phía trước của tri thức thời đó. (Ý nói rằng, vào thời đó, tri thức hữu thần đã không theo kịp với lý Duyên Khởi khoa học rồi, thì làm sao có được tri thức để mà giải thích được nguyên nhân ban đầu là ai tạo ra Thần Gió –ND).

Ngay cả Lý Duyên Khởi là một quy luật khoa học, (chắc chắn đã  và đang được áp dụng trong tất cả suy luận hay nghiên cứu về khoa học và kỹ thuật trên thế gian này –ND), cũng không đặt vấn đề về “nguyên nhân đầu tiên”, bởi vì những ý niệm về cái “nguyên nhân đầu tiên” đã có nghĩa là chấm hết, tức đã hỏi vậy thì không còn những suy luận tiến bộ hay tiến xa hơn nữa vào việc khám phá quy luật tự nhiên rồi. (Bởi vì, nếu cứ truy ngược và hỏi, thì mãi mãi không bao giờ tìm thấy nguyên nhân đầu tiên, vì sự khởi thủy của một nguyên nhân đầu tiên là một vấn đề không phải dễ dàng thấy được, dù quy luật đó là khoa học –ND).

Về vấn đề nguồn gốc khởi thủy của một chúng sinhĐức Phật đã nói rằng:

“Này các Tỳ kheo, khởi thủy của vòng luân hồi là không nghĩ bàn được, sự khởi thủy của chúng sinh là không thể nào nhìn thấy được, chúng sinh bị che mờ bởi vô minh và mê đắm (dính chấpvào dục vọng, càng lúc càng ra vào, trôi giạt rất xa trong vòng luân hồi sinh tử”.

Xem thêm quyển “những Điều Phật Đã Dạy”, (Chương 2, trang 74), Tiến sĩ HT. W. Rahula đã trích dịch lời Phật nói về vấn đề này như sau:

Này các Tỳ kheo, vòng luân hồi (Samsàrakhông có kết thúc rõ rệt (không có thể nhìn thấy, nhận biết được)và sự bắt đầu sự sống (khởi thủycủa chúng sinh lang thang, vào ra, lăn lộn trong Vô Minh (avijjavà trói buộc bởi Dục vọng (tanhàlà điều không thể nhận thấy được”.

(Thiết nghĩ đây cũng là một cách nói tương tự. Có lẽ vì cách dịch từ kinh điển nguyên thủy của mỗi ngài mỗi khác, nhưng ý nghĩa là hoàn toàn giống nhau – ND).

4. Lý Duyên Khởi Là Khác Với nguyên nhân Trực Tiếp

Quy luật tác nhân được hiểu bởi nhà triết học và những người khác thì nguyên nhân và kết quả (nhân và quả) là hai sự việc khác biệt nhau, cái này sản sinh ra cái kia. Theo lý Duyên Khởi, hai sự kiện không nên được xem là hai cái hoàn toàn khác biệt với nhau, bởi vì giữa chúng có một mắc nối liên hệ với nhau trong cùng một quá trình, không có sự tách biệt hay sự ngăn cách giữa chúng. Trên thế gian, không bao giờ có một sự việc tồn tại độc lập một cách đơn lẻ, cô lập. Một nguyên nhân hay một tác nhân từ bản thân nó không thể đứng một mình.

 Ví dụ:

Đất sét là nguyên nhân làm ra cái bình, như những nhà triết học  thời Trung Cổ đã giả định. Đúng vậy, đất sét là cần thiết để làm ra cái bình, nhưng bản thân một mình đất sét thì không đủ để làm ra cái bình. Nếu không có nước (để nhào nặn), không có bàn xoay, thì không làm ra cái bình được. Không có ý định làm cái bình thì ngay cả có đủ những điều kiện cần nói trên cũng không có cái bình. Tất cả những yếu tố trên đều phải có đủ mới làm ra được cái bình. Nếu có một yếu tố nào không có, thì chắc chắn sẽ không có cái bình được làm ra. Vì vậy, sẽ không chính xác khi nói rằng đất sét là nguyên nhân làm ra cái bình. Dù có một cánh đồng đất sét ngoài kia, nhưng không liên quan gì đến sự ra đời của những cái bình. Người ta thậm chí phải đưa thêm rất nhiều yếu tố tác nhân khác mới làm ra gạch, ngói, vách nhà…Cách diễn đạt chính xác nhất là: “nhờ vào (tùy thuộc vào, nhờ có, do có) đất sét, cái bình được làm ra”.

Vì vậy, đây là cách giải thích mọi hiện tượng một cách khoa học và mang tính lý lẽ theo lý của Quy Luật Duyên Khởi.

(Mở rộng thêm một chút, ngay cả đã đủ các yếu tố tác nhân là đất sét, nước, bàn xoay… và cả ý định làm cái bình, nhưng trong một quá trình phức hợp, chưa chắc đã làm ra được cái bình. Ví dụ, trong có vẻ hài hước nhưng hoàn toàn có thể xảy ra, trục bàn xoay bị ẩm ướt do thời tiết và tạo ma sát thường xuyên làm ảnh hưởng đến tốc độ vòng tua của bàn xoay, người thợ cuối cùng không thể làm ra cái bình cao để cắm hoa, mà chỉ có thể làm ra cái chén thấp. Nếu trục bàn xoay bình thườngthuận duyên, thì cái bình đã được làm ra. Nhưng trục bàn xoay bỗng nhiên không được bình thườngnghịch duyên, nên chỉ có thể làm ra cái chén. Điều kiện trục bàn xoay là nghịch duyên đối với cái bình và lại là thuận duyên đối với cái chén, mặc dù ý chí của người thực hiện là làm ra cái bình.

Cũng với lý nhân duyên này mà một người trên bước đường tu tập gặp phải những nghịch duyên, chướng duyên làm cho mục tiêu không thể đạt được, nếu hiểu được quy luật tự nhiên này thì không thoái chí hay nản lòng, mà nên quán chiếu thêm về nhân duyên hay nghiệp báo –ND).

5.   Lý Duyên Khởi giải thích về nguồn Gốc Khổ

Trong tất cả những giáo lý Phật giáo, không có vấn đề nào dễ bị ngộ nhậnhiểu lầm bằng nhiều diễn dịch mâu thuẫn và vô lý, hơn  là thuyết Duyên Khởi. Trong nhiều trường hợp, người ta đã cố dùng Lý Duyên Khởi được để lý giải sự bắt đầu, sự khởi thủy của tất cả sự vật, và người ta đã ‘thấy’ trong “Vô minh” được xếp hàng như là “nguyên nhân đầu tiên” và bắt đầu từ đó theo dòng thời gian, tất cả sự sống tâm thức và vật chất (danh và sắc) được tiến hóatiến triển ra. Mặc dù Đức Phật đã dạy đi dạy lại một cách nhất quán rằng sự khởi thủy của sự sống (sự hiện hữulà một điều không thể nghĩ bàn, tất cả những suy đoán đó có thể làm người đời điên khùng; và làm sao, với tri thức thế tục, họ có thể thấy được thời điểm nào là lúc chưa có Vô Minh và Dục Vọng.

Đức Phật đã giảng lý Duyên Khởi để làm gì?

Để cho con người thấy được những nguyên nhân & những điều kiện (nhân & duyên) tạo ra Khổ ngay hiện tại và tương lai, liên tục. Chỉ có bằng cách dùng lý Duyên Khởi để biết được nguồn gốc và nguyên nhân của Khổ thì mới hy vọng diệt khổ được. Đức Phật đã thiền quán về sự chết, già và khổ khi Người truy nguyên ngược dòng theo chuỗi sự kiện của vòng Duyên Khởi.

(Công thức truyền thống của vòng Duyên Khởi được trình bày trong phần Chú Giải 1).

(i)  Già (Jara) và Chết (Maranatùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

Tức là do đâu mà có già và chết?. Già và chết tùy thuộc vào & do tái sinh mà xảy ra. Sau khi một người được sinh ra (jati), già (jara), chết (marana) sẽ theo sau như một trình tự tự nhiên bắt buộc. Điều này diễn ra là vì có một thực tại tột cùng, một chân lý tột cùng, đó là: “Có những bản chất khởi sinh (uppada), tồn tại (thiti) thì có hoại diệt (bhanga)”. Nói cách khác: “Cái gì có sinh là có diệt”. Sau khi khởi sinh, tồn tại và hoại diệt, thì chắc chắn một chu kỳ mới sẽ khởi sinh: khởi sinh là Sinh ra, tồn tại là (tăng trưởng và) Già đi và hoại diệt là Chết. Vì vậy, như ai cũng biết rõ, sau khi sinh ra thì chắc chắn sẽ dẫn đến Già và Chết (Sinh, Lão, Tử không thể tránh được).

Những sự kiện trong những chu kỳ hay vòng đời trên đây là những tác nhân ban đầu của một sự tái sinh mới. Và vì có tái sinh, nên theo sau là có buồn đau (soka), rầu rĩ, than khóc (parideva), đau đớnđau khổ (dukkha), phiền não (domanassa) và thất vọng, chán chường, bất toại nguyện (upayasa) cũng khởi sinh theo. Năm dạng “khổ” này không phải là những hệ quả đầu tiên (hay hệ quả chính) không thể tránh được của sự tái sinh mới nói trên. Mà chúng là những hệ quả thứ cấp, không phải là hệ quả tất yếu hay chính yếu của nhân tái sinh đó, và chúng có thể khởi sinh hay không khởi sinh tùy thuộc vào những điều kiện (duyên) khác nhau nữa. Năm dạng “khổ” thứ cấp này không có mặt trong những chúng sinh thuộc trời , thần (tức cõi Phạm Thiên, nơi đó không có những dạng khổ ‘thế gian’ như buồn đau (soka), than khóc (parideva)đau đớn (dukkha), phiền não…); và cũng có thể không có mặt trong phôi thai chết trong buồng trứng hay trong một trứng.

(ii)   Tái Sinh (Jatitùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

Tái sinh tùy thuộc vào & do sự “Trở Thành” (có thể gọi là “Hình Thành” hay “Hiện Thành”) mà có. Quá trình “Trở Thành” hay “hiện hành” bao gồm vào 2 dạng:

(1)   Quá Trình do nghiệp - (kamma-bhava: do nghiệp, nghiệp hữulà mặt chủ động của sự hiện hữu, sự sống; Nghiệp là động   lực dẫn dắt tạo ra tái sanh trong các cảnh giới luân hồi. Nghiệp là những hành động có tác ý, từ nghiệp tạo thành sức mạnh của nghiệp hay còn gọi là nghiệp lực.

(2)  Quá Trình Tái Sinh - (uppatti-bhava), là mặt thụ động, mặt “nghiệp-quả” của sự hiện hữu, sự sống.

Sự “Trở Thành” có nghĩa sự hữu nghiệp, sự mang nghiệp (kamma- bhava), quá trình Nghiệp (Kamma) tạo điều kiện, làm duyên cho  sự tái sinh.

Đức Phật đã từng dạy:

(1)  Những hành động xấu (nghiệp bất thiện) dẫn đến tái sinh vào những tình trạng hay cảnh giới xấu (khổ đau);

(2)  Những hành động tốt (nghiệp thiện) dẫn đến tái sinh vào những tình trạng hay cảnh giới hạnh phúc, về vật chất và tinh thần;

 (3)    Những hành động điềm tĩnhbất động (nghiệp bất động) (anenjhabi) sẽ dẫn đến tái sinh vào cảnh giới vô sắc.

Theo Đức Phật, tất cả chúng sinh đều mang nghiệp (kamma) của mình. Mặc dù những hành động tạo tác (tức “Hành”) luôn luôn xuất hiện trong từng hành động, lời nói và ý nghĩ. Trong trường hợp một A-la- hán thì những hành động tạo tác đó không bị đi kèm bởi dục vọng trong mỗi sát-na tạo tác, thúc đẩy, và nó hoàn toàn biến mất, không để lại dấu vết và không còn bị chuyển thành/vào nghiệp (kamma). Vì vậy, không có nghiệp thúc đẩy tái sinh đối với những vị A-la-hán.

Theo nghĩa trên, ta càng hiểu rằng nghiệp-hữu (kamma-bhava) hay sự mang nghiệp chính là điều kiện, là ‘duyên” thúc đẩy, làm ra tái sinhTrong suốt những chu kỳ hay những vòng luân hồi tái sinh, không có một cái “Tôi” hay “Bản ngã” hay “linh hồn” nào được nhận thấy, ngoại trừ hiện tượng sinh, già, chết tùy theo điều kiện (sinh diệt tùy duyên).

 (iii)   Quá Trình Trở Thành hay nghiệp hữu (Kamma Bhavatùy thuộc vào nhân gì?

 Quá Trình Trở Thành hay Nghiệp Hữu thì tùy thuộc vào & do sự Dính Chấp (Upadana) mà có. Tất cả chúng sinh, ngoại trừ A-la-hán, đều dính mắc, dính chấp vào sự hiện hữu (sự sống) và những dục lạc (khoái lạc giác quan). Có 4 loại Dính Mắc, đó là:

(1)  Dính mắc vào dục lạc (kamupadana),

(2)  Dính chấp vào quan điểm sai lạc hay tà kiến (ditthupadana),

(3)   Dính mắc vào những hủ tục, phong tục, nghi lễ thờ cúng (silabbatupadana), không dẫn đến sự giải thoát hay sự chấm dứt khổ.

(4)   Dính chấp vào niềm tin vào một “bản ngã” hay ngã chấp (attupadana).

 

Sự Dính Chấp không thể làm điều kiện, là duyên trực tiếp cho quá trình tái sinh. Nó chỉ làm điều kiện, làm duyên cho quá trình tạo nghiệp mới, quá trình “trở thành”. Khi một người bị dính chấp vào một điều gì bám chắc hay ăn sâu từ lâu, thì người đó thường hành động cách này hay cách khác để giữ chặt điều đó hay đối tượng đó. Và bằng cách hành động như vậy, quá trình tạo nghiệp mới, tức quá trình “trở thành” hay “hiện thành” đã xảy ra hay đã được thực hiện.

(iv)   Sự Dính Chấp (Upadanatùy thuộc vào nhân gì?

Sự Dính Chấp thì tùy thuộc vào & do Dục Vọng (Tanha) mà có. Có 3 loại dục vọng, đó là: 

(1)  Dục vọng khoái lạc giác quan hay nhục dục,

(2)  Dục vọng Được Liên Tục hiện hữu, và

(3)  Dục Vọng Vì Không Được Liên Tục hiện hữu

• Loại dục vọng đầu tiên là nhục dục (kama-tanha) được gắn liền với 6 đối tượng của giác quan

(Loại dục vọng căn nguyên, cơ bản này đều có trong tất cả chúng sinh, làm mê đắm và dính mắc chúng sinh từ vô thủy vô chung. Nó được xem như là lý do để sống, là lẽ sống. Nhưng thật ra chính nó tạo nghiệp mỗi khi (và kéo theo) tái sinhluân hồi sinh tửVì vậy, chỉ cần diệt sạch những dục vọng khoái lạc giác quan này, thì sẽ dừng tái sinhluân hồi, như những bậc A-la-hán đã làm được. Đó là công thức mục tiêu của Phật Giáo. – ND).

•  Dục vọng thứ hai là dục vọng (được liên tụchiện hữu (bhava- tanha): cũng chính là loại “Nhục dục” thứ nhất, nhưng đi kèm với quan điểm về một “bản ngã”, quan điểm cho rằng có “một linh hồn” thường hằngbất diệt trong kiếp này và chuyển qua kiếp khác.

(Loại dục vọng này thúc đẩy con người cố tạo nhiều và hưởng thụ nhiều khoái lạc giác quan hay dục lạc trong kiếp này; và rất nhiều ý chí cố tạo được nhiều dục lạccảnh giới sung sướng cho cả kiếp sau, theo tư tưởngý chí của kiếp này. – ND).

 •  Và thứ ba là dục vọng vì không được liên tục hiện hữu (vibhava- tanha) trong viễn cảnh sau khi chết: Loại này cũng chứa toàn “Nhục dục” thứ nhất, nhưng đi kèm với quan điểm về sự không hiện hữu, không còn gì, sẽ bị huỷ diệt sau khi chết.

 (Loại dục vọng này thúc đẩy con người càng thêm tạo tác, cố sức tạo nhiều và thụ hưởng khoái lạc giác quan hay dục lạc ngay trong kiếp sống này bằng mọi giá, bất chấp đạo lý, bất chấp tội lỗi, bất chấp sự tạo nghiệp, bởi vì những người này cho rằng sau khi chết là hết, làm gì có linh hồn nào, cái “Tôi” nào đi chịu hình phạt hay quả báo cho những tội lỗi ở kiếp này. Trong thực tế, loại người có quan điểm, có tư tưởng này là rất nhiều, điều đó được chứng minh bằng những tội ác lớn xảy ra hàng ngày trong cuộc sống trên khắp nơi của thế giới, chưa kể đến những tội lỗi tàn sát trong quá khứ cổ đại, cận đại và hiện đại –ND).

 ▪  Như vậy Dục Vọng (tanha) là 6 dạng thèm muốntham muốn những đối tượng khoái lạc của 6 giác quan (theo bất kỳ nghĩa nào, tích cực hay tiêu cực, ví dụ mắt thích nhìn cảnh đẹp thiên nhiên lành mạnh hay cảnh đồi trụy) thì đều được gọi chung là ham muốn (dục vọng) khoái lạc giác (nhãn) quan –ND).

 (Ví dụ, một người mang dục vọng thứ hai, “dục vọng được liên tục hiện hữu”, tin vào ‘linh hồn’, ‘bản ngã’ kiếp sau, thường mơ đến cảnh giới sung sướng, thường tâm niệmao ước thậm chí trở thành con gái hay con trai ở kiếp sau, thì sẽ tạo nghiệp, và như nếu được trợ thêm duyên, có thể sẽ tái sinh vào cảnh giới hay tình trạng như hằng mong ước. Mà đã có tái sinh là có luân hồi và vẫn còn khổ, vẫn chưa chấm dứt khổ -ND).

 ▪  Dục Vọng (tanha) cơ bản là sự thèm muốnham muốn có được, đạt được, lấy được đối tượng để thỏa mãn giác quan, trong khi đó sự dính mắc hay dính chấp khởi sinh hay tăng lên sau khi đã có được đối tượng. (upadana, (HV)chấp thủ).

 Tất cả 4 loại Dính Chấp khởi sinh là do kết quả của dục vọng.

 ─  Sự dính mắc vào dục lạc là khởi sinh từ nhục dục hay dục vọng khoái lạc giác quan.

 ─  Sự dính chấp vào những quan điểm sai lạc hay tà kiến về “con người” hay về cái “Tôi” hay “bản ngã” là khởi sinh từ sự mê lầm, dính chấp (dục vọng) về cái “Tôi”, về “bản ngã” (hay thân kiến).

 ─  Sự dính chấp vào những hủ tục, lễ nghi thờ cúng là khởi sinh từ tham muốn (dục vọng) mình, cái “Tôi” hay bản thân của mình được gia hộ tốt hơn, được bảo hộ tốt hơn, bên cạnh sự mê lầmsai lạc có sẵn về cái “Tôi”.

 Vì vậy theo quan hệ nhân duyên thì chính dục vọng làm điều kiện để khởi sinh ra sự dính chấp. Hay nói khác, sự dính chấp là tùy thuộc vào & do (nhân) Dục Vọng mà có. Điều này đã rõ ràng.

 (v)   Dục Vọng (Tanhatùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

 Dục vọng thì tùy thuộc vào & do Cảm Giác hay Cảm Thọ mà có. Khi có cảm giác dễ chịu, thì sinh ra dục vọng hưởng thụ nó. Thậm chí ngay khi đang có cảm giác đau đớn thì cũng khởi sinh ra dục vọng, bởi vì do cảm giác đau đớn có thể làm khởi sinh dục vọng hay mong muốn nỗi đau sẽ biến mất và sẽ được thay thế bằng những thứ dễ chịu khác hay ít nhất là cảm giác trung dung (không dễ chịu cũng không còn đau đớn). Cảm Giác hay Cảm Thọ trung dung (upekkha vedana) là không dễ chịu (khổ thọ) cũng không khó chịu (lạc thọ), nhưng nó không phải là không có cảm giác hay là một sự vô cảm, mà là một cảm giác dễ chịu rất vi tế theo một chiều là không có cảm giác khó chịu hay đau khổđau đớn. (Nói cách khác, đối với lạc thọ thì nó chẳng là gì, nhưng nếu đem so sánh với cảm giác khó chịu hay khổ thọ thì nó chắc chắn sẽ mang lại cảm giác “lạc thọ” theo một nghĩa rất tế nhị: Vì nó vẫn tốt hơn khổ thọ. -ND).

 (vi)    Cảm giác hay Cảm Thọ tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

 Cảm Thọ thì tùy thuộc vào & do có Tiếp Xúc (Phassa) mà khởi sinh. Khi có những Đối Tượng của các giác quan (hình sắc nhìn thấy được, âm thanh, mùi hương, mùi vị, chạm xúc và ý nghĩ) và “chạm” với các Giác Quan hay các Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm) thì sẽ làm khởi sinh 6 loại Thức (thức nhìn thấy, thức nghe, thức ngữi, thức chạm xúc và thức suy nghĩ; hay Hán-Việt: nhãn thứcnhĩ thức, khứu thức, thiệt thức, xúc thức và tâm thức hay ý thức).

 Khi kết hợp 3 thứ này (Đối tượng giác quan, Sự va chạm của chúng với giác quan & làm khởi sinh ra Thức), gọi chung là sự “Tiếp Xúc” (Phassa) thì phát sinh ra Cảm giác hay Cảm thọ (Vedana). Tiếp Xúc (phassa) và Cảm thọ (vedana) khởi sinh cùng lúc, ngay khi khởi sinh Thức. Tuy nhiênTiếp Xúc (Phassa) được coi là nguyên Nhân và Cảm thọ (vedana) được coi là Quả.

 Tương ứng với 6 loại Thức, có 6 loại Tiếp Xúc và 6 loại Cảm ThọCảm giác dễ chịu (HV: lạc thọ), Cảm giác không dễ chịu (HV: khổ thọ) hay trung dung (HV: vô ký thọ), tùy thuộc vào bản chất của những đối tượng của giác quan (trần). Nếu đối tượng là dễ thươngvừa ý, thì khởi sinh cảm giác dễ chịu (lạc thọ), nếu đối tượng là khó ưa, không vừa ý, thì khởi sinh cảm giác khó chịu (khổ thọ). Nếu đối tượng là không vừa ý cũng không khó chịu, thì khởi sinh cảm giác trung dung hay bàng quan (vô ký thọ).

Chú thích:

Trong suốt quyển này, vì một số từ Hán Việt (HV) quan trọng đã được dùng quen thuộc trong giới Phật học Việt Nam, nên tùy theo ngữ cảnh câu nói hay diễn đạt vẫn được dùng xen lẫn với từ thuần Việt (V).

Ở đây, bạn đọc cần lưu ý các từ được dùng cùng lúc hay xen lẫn nhau và mang cùng ý nghĩa:

Cảm giác (V) = Cảm thọ (HV)

Cảm giác dễ chịu (V) = Lạc thọ (HV) Cảm giác khó chịu (V) = Khổ thọ (HV)

Cảm giác trung dung (V) = Vô ký thọ (HV) Tiếp Xúc, Xúc Chạm (V) = Xúc (HV)

Giác quan (V) = Căn (HV)

Đối tượng giác quan (V) = Trần (HV)

……..

(viii)  Tiếp Xúc (Phassa) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

“Tiếp Xúc” thì tùy thuộc & do “Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc” hay còn gọi là Lục Nhập (HV) (Salayatana), đó là: Mắt và những đối tượng nhìn thấy được, tai và âm thanh, mũi và mùi hương, lưỡi và mùi vị, thân và những vật chạm xúc, tâm và đối tượng của tâm. Không có những cơ sở Tiếp Xúc này của những giác quan và những đối tượng trên này thì sẽ không sinh ra Thức đối với những đối tượng bên ngoài (trần) và những đối tượng của tâm.

Xin nói lại, ở đây rõ ràng là quy luật nhân quả, chứ không có một ‘con người’, linh hồnđấng sáng tạo nào cả. Quy luật tự nhiên bản thân nó là quy luật vận hành một cách tự nhiên.

(viii)  Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Salayatana) hay Lục nhập tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

 “Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc” thì tùy thuộc vào & do “Yếu tố tinh thần và vật chất”, hay còn gọi là “Danh & Sắc” (Nama-rupa) mà khởi sinh. Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc bao gồm 5 cặp giác quan về vật chất & đối tượng của chúng, cùng với 1 cặp giác quan tâm & đối tượng của tâm (pháp). Hay nói cách khác, Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Lục Nhậpbao gồm 6 giác quan (Lục Căn) & 6 đối tượng tương ứng của chúng (Lục Trần).

 “Tâm” ở đây là danh từ chung đại diện cho 89 hay 101 loại tâm thức (citta) như được giải thích trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). 5 Cơ Sở Tiếp Xúc là thuộc về vật chất hay về Sắc (HV) và có 1 Cơ Sở Tiếp Xúc là tâm & đối tượng của tâm là thuộc về tinh thần hay về Danh (HV).

 (ix)  Yếu tố tinh thần và vật chất hay Danh và Sắc (Nama-rupatùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

 “Danh Sắc” thì tùy thuộc vào & do “Thức” (Vinvanana) mà khởi sinh. Sự khởi sinh ra một thực thể sống bao gồm 2 yếu tố do vật chất và tinh thần (danh và sắc) thì tùy thuộc vào hay dựa vào Thức Tái Sinh, vì nếu không có Thức Tái Sinh, thì sẽ không sinh ra yếu tố vật chất và tinh thần (danh và sắc) trong bào thai (chúng sanh có vú), trứng (loài bò sát, chim, cá) hay trong những loài tự sinh (như loài chúng sinh ở địa ngục, ma (ngạ quỷ), thần, trời phạm thiên). Không có thực thể cái “tôi” hay linh hồn ngoài hiện tượng khởi sinh và biến mất (sanh diệtliên tục như vậy.

(x)  Thức (Vinnanatùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

“Thức” thì tùy thuộc vào & do có “Những Hành Động Cố Ý” hay do tâm tạo tác, còn gọi là “Hành” (sankhara) mà khởi sinh. Ở đây, Thức có nghĩa là hàng loạt những thức khác nhau, bao gồm cả thức tái sinh là kết quả của những hành động cố ý hay tạo tác được thực hiện trong kiếp sống trước. Hành là nhân của Thức hay Thức là quả của Hành. Chỗ này rất quan trọng, nhưng rất khó để hiểu ngay những Hành vận hành như thế nào để làm sinh ra thức tái sinh.

Theo Đức Phật, sau khi Thức cuối cùng cùng với tất cả yếu tố vật chất và tinh thần (danh và sắc) chấm dứt ngay khi chết, thì chính nghiệp (kamma) là nhân làm sinh ra “Thức tái sinh” (là quả, vipaka), cùng với những yếu tố vật chất tinh thần (danh và sắc) mới, vốn vẫn còn ô nhiễmNếu không có sự hiểu biết này thì dễ dẫn đến sự hiểu lầm hay quan điểm sai lầm, đó là: Sự tin vào sự đầu thai hay sự chuyển dịch của những ‘linh hồn’ (quan điểm về sự tồn tại của ‘linh hồn’ thường hằng) hoặc sự tin vào sự hoàn toàn bị hủy diệt). (Xem thêm chi tiết ở Chương VI,.3).

(xi)  hành Động Cố Ý, Tạo Tác hay hành (Sankharatùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?

Hành thì tùy thuộc vào & do có “Vô Minh” (Avijja) mà khởi sinh.

Theo lý giải của “Kinh Tạng” (Suttas), Vô Minh tức là sự không hiểu biết hay thiếu hiểu biết về Tứ Diệu Đế.

Theo lý giải của “Vi Diệu Pháp Tạng” (Abhidhamma), thì có 8 đối tượng quan trọng bị che mờ, bị bao phủ bởi “màn đêm” Vô Minh (Avijja), vì thế bản chất thực sự của chúng không được nhìn thấy hay biết rõ. Tám (8)  lẽ thật quan trọng bị Vô Minh che mờ đó là gì?, đó là:

1. Tứ Diệu Đế hay bốn Chân lý về Khổ,

2.  Nguồn gốc Khổ,

3.  Sự chấm dứt Khổ, và

4.  Con đường dẫn đến sự chấm dứt Khổ; và

5.  Sự không hiểu biết về Quá Khứ,

6.  Sự không hiểu biết về Tương Lai,

7.  Sự không hiểu biết về Quá Khứ & Tương Lai,

8.  Sự không hiểu biết về Lý Duyên Khởi.

 Những Hành Động Cố Ý, Tạo Tác (hành), dù là tốt hay xấu, đúng đạo lý hay không đúng đạo lý, thì đều có nguồn gốc hay cội rễ từ Vô minh (u mê). Chúng được gọi là những tạo tác hay những sự tạo nghiệp (kamma-formations) và tạo ra những nghiệp nhân hay là nguyên nhân để dẫn đến tái sinh, kéo dài thêm vòng luân hồi sinh  tử (samsara). Sankhara (hành) cũng giống như nghiệp hữu hay sự mang nghiệp (kamma-bhava) đã được giải thích ở mục thứ hai của Chương này, tức là mắc xích thứ hai của vòng duyên khởi, theo ý nghĩa thì cả hai đều làm duyên hay điều kiện thúc đẩy quá trình tái sinh. Sự khác nhau duy nhất là Sankhara (hành) là duyên thuộc về quá khứ, trong khi đó Sự mang nghiệp hay “Nghiệp hữu” (kamma- bhava) thì thuộc về ngay hiện tại. (Chú Giải 2).

 Bởi vì sự “Vô Minh”, không biết được Nghiệp (kamma) và Nghiệp Quả, người ta làm những hành động bất thiện nhằm mục đích ích kỷ trước mắt. Vì si mê cho rằng dục lạc và những khoái lạc của những tầng thiền (jhana) là những dạng hạnh phúc thật sự, mọi người thực hiện những việc bố thícúng dường (dana), giữ giới (sila) và thiền (bhavana) để nhằm mục đích đạt được hạnh phúc trong đời này và đời sau thông qua sự tái sanh để làm người, thiên thần hay trời Phạm thiên. Do vậy, người ta tích lũy nhiều nghiệp (kamma hay “Hành”- sankhara) tốt xấu, thiện và bất thiện do si mêvô minh mà tạo ra.

Đây là cách cho chúng ta thấy rõ quy luật Duyên Khởi đã giải thích về Diệu Đế về nguồn Gốc Khổ như thế nào. Khi Tứ Diệu Đế đã được hoàn toàn hiểu rõVô minh sẽ tự động bị xóa bỏ. Ánh sáng chân lý sẽ soi rọi cho chúng ta bước vào con đường chánh đạo.

Khi nói về Nguyên nhân của sự Vô MinhĐức Phật đã dạy rằng nguồn gốc của Vô Minh không dễ dàng tìm thấy hay nhìn thấy được trong những vòng luân hồi sinh tử bất tận từ trong vô thủy.

6. Chiều ngược Lại (hoàn Diệt) Của Vòng Duyên Khởi Giải Thích Sự Chấm Dứt Khổ. 

i)          Nếu không có Vô Minh, thì không có Hành (những hành động cố ý, tạo tác).

ii)         Nếu không có Hành, thì không có Thức.

iii)       Nếu không có Thức, thì không có Danh Sắc (những yếu tố vật chất và tinh thần của một thực thể sống).

iv)       Nếu không có Danh Sắc, thì không có Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Lục nhập).

v)         Nếu không có Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Lục nhập), thì không có Tiếp Xúc.

vi)        Nếu không có Tiếp Xúc, thì không có Cảm Giác (Cảm Thọ).

vii)      Nếu không có Cảm Giác, thì không có Tham Muốn hay Dục Vọng.

viii)    Nếu không có Dục Vọng, thì không có Dính Mắc hay Chấp Thủ.

ix)       Nếu không có Dính Chấp, thì không có sự Trở Thành hay sự Hiện Thành.

x)         Nếu không có hay sự Hiện Thành thì sẽ không có Tái Sinh.

xi)        Nếu không có Tái Sinh, thì không có Già, Chết & Khổ Đau.

Đây là cách giải thích về Chân lý về Chấm Dứt Khổ bằng lý Duyên Khởi. Khi một người đã hoàn toàn nắm vững về Tứ Diệu Đế, người đó trở thành một A-la-hán (Arahant). Vì một A-la-hán là người đã không còn Vô Minh hay si mê, vòng mắc xích Duyên Khởi, còn được gọi là Vòng Liên Tục Hiện Hữu đã bị chặt đứt và không còn tái sinh, không còn Khổ đau nữa.

7.  Lý Duyên Khởi Siêu Thế (Lokuttara Paticca Samuppada)

Cần phải nắm rõ rằng Đức Phật đã giảng dạy nguyên lý “Duyên Khởi” là để cho mọi người thấy được những nguyên nhân và điều kiện hay Duyên (nhân và Duyên) mà thông qua đó Khổ đã phát sinh ra, bây giờ và sau này. Chỉ có thông qua cách biết nguồn gốc và nguyên nhân của Khổ thì mới diệt được Khổ!.

 Việc không nắm vững điểm quan trọng này, đã dẫn đến sự diễn dịch một cách suy đoán về lý “Duyên Khởi” bởi những người Đại Thừa, kết quả là họ đưa đến một học thuyết khác và cho rằng nó đại diện cho giáo lý đích thực của Đức PhậtĐộc giả có thể đã nghe quen với học Thuyết về Tánh Không, một lý thuyết phức tạp do ngài Long Thọ được dựa vào sự diễn dịch của riêng ông về lý Duyên Khởi, phủ nhận sự tồn tại của tất cả mọi hiện tượng trên thế giới, cho rằng tất cả chỉ là Không. Tuy nhiêncho đến khi học thuyết lớn này của ngài thậm chí cũng phủ nhận sự tồn tại, sự hiện hữu của thế giới tùy thuộc lẫn nhau, tương quan tương tức, thì bản thân học thuyết này đã không còn tự bảo vệ được nữa. Thật ra ‘tánh không’ của vạn vật chỉ là không thường hằng, không cố định, luôn luôn thay đổi tùy theo nhân duyên, theo điều kiện, do sinh diệt của những yếu tố nhân duyên.

 Sau đó, anh em các ngài Asanga (Vô Trước) và Vasubandhu (Thế Thân) đã cho ra đời một học thuyết thứ hai là Yogacara (Du Già), phủ nhận cái “Không” triệt để của mọi sự vật mà học thuyết Tánh Không đã giảng luận. Nếu mọi sự vật đích thực đều là trống Không, bằng cách nào tâm (tâm trínhận thức được tánh Không đó?. Thuyết Du Già giảng rằng bản thân một sự vật đứng riêng nó không phải vốn là trống không: mà chính là Thức mới là Không. Đối với họ, cái thật sự tồn tại trong thế giới nhân duyên tùy thuộc lẫn nhau là Thức “gốc”, được gọi là tàng Thức hay A-lại-ya-thức, nó cũng vận hành theo lý Duyên Khởi trong vòng Duyên KhởiTuy nhiên, Thức cơ bản mang tính chất Nhân Duyên tùy thuộc và vì thế cũng được cho là Không luôn!.

Bây giờ có thể nhận ra rằng những học thuyết lớn của Đại Thừa mang đầy tính hùng biện chẳng qua cũng chỉ là nói về các “Hành” hay những hành động cố ý, tạo nghiệp, những diễn dịch suy đoán một cách hư vôvô ích không mang lại sự chấm dứt Khổ. Những quan điểm đó chẳng khác mấy với những quan điểm suy diễn siêu hình của những du sĩ khổ hạnh ngày xưa, mà Đức Phật thường tỏ thái độ im lặng chứ không trả lời, bởi vì chúng chẳng mang lại lợi lạc, không giúp gì đến việc tu tập để chấm dứt đau khổ hay để giác ngộ. Những câu hỏi siêu hình ngày đó dựa vào những phỏng đoánsuy diễn như là: (1-2) thế giới tồn tại bất diệt hay không?, (3-4) Thế giới là vô hạn hay không?, (5-6) Linh hồn có là một với thể xác hay không?, (7-8) Như Lai (a) sẽ tồn tại, (b) sẽ không tồn tại, (c) sẽ vừa tồn tại vừa không tồn tại, và (d) không tồn tại cũng không phải không tồn tại, sau khi chết?.

8. Ngọn Lửa sẽ đi về đâu sau khi tắt? Giác ngộ có nghĩa là gì ?

Mặc dù Đức Phật đã nhiều lần quở trách, nhưng đã có rất nhiều tu sĩ, thậm chí cho đến tận ngày hôm nay, luôn luôn suy nghĩsuy diễn hay suy đoán Đức Phật đã về đâu, hay đang ở đâu, sau khi Bát-Niết-Bàn của Người. Điều này cũng giống như hỏi ngọn lửa đã đi về đâu sau khi tắt vậy. Những người nấu bếp hay những đầu bếp sẽ không bao giờ lãng phí thời gian để hỏi những câu hỏi vô bổ như vậy. Họ chỉ đơn giản thay bình ga mới và bắt lửa mới lên bởi vì bình ga cũ đã hết ga và không còn bắt được thành lửa nữa. Tương tự vậy, khi Vô Minh (avijja) đã được nhổ sạch tận gốc, thì sẽ không còn nguồn ‘năng lượng’ hay năng lực nào để mà thức dậy tái sinh. Theo quy luật Duyên Khởi (Paticca Samuppada), không còn yếu tố vật chất và tinh thần hay yếu tố thân tâm nào, tức không còn Danh và Sắc nào khởi sinh sau Bát-Niết-Bàn của các vị Phật và các vị A-la-hán, bởi vì các vị đó đã nhổ tận sạch gốc vô Minhnguyên nhân và nguồn gốc tạo tái sinh và đau Khổ!

Trong học thuyết này về Duyên Khởi (Paticca Samuppada) Đức Phật đã định nghĩa một cách rõ ràng ý nghĩa của “giác ngộ. Đó là sự nhổ sạch tận gốc Vô Minh (avijja) bằng con đường tu chứng đến A-la-hán Vô Sinh (Arahatta Magga). Điều này có nghĩa là chỉ có những vị Phật Duyên Giác (Pacceka) và những vị A-la-hán là những bậc giác ngộ thực sự. Nhiều người viết ngày nay vẫn dùng từ “giác ngộ” một cách rất lỏng lẻo và tự do, khác với cách diễn đạt rõ ràng và kỹ càng của Kinh điển. Nếu cẩn thận, điều này sẽ mang nhiều lợi ích cho nhiều độc giả, vì còn rất nhiều người vẫn không hiểu được ai là những bậc giác ngộ.

Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima 63), Kinh “Culamalunkya Sutta”, Đức Phật đã dùng ví dụ về một người trúng mũi tên độc để diễn tả và dạy cách của một người khôn ngoan là gì để thoát khỏi vòng luân hồi (samsara):

“Có Sinh, có Già, có Chết, có buồn đau, sầu nãođau đớnphiền não và bất toại nguyện, có sự chấm dứt mà ta đã giảng dạy nhiều lần”.

 Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya XLIV, 2), Đức Phật cũng đã nói lại:

“Cả trước và bây giờ, này, Anuradha đó chỉ là những phiền não và sự dập tắt phiền não như ta đã tuyên thuyết”.

Trong khi sự áp dụng hay công dụng thứ nhất của lý “Duyên Khởi” là giải quyết nguyên nhân khởi sinh Khổ (dukkha), bắt đầu từ Vô Minh (avijja) hay si mê, thì cũng có cách áp dụng thứ hai để giải quyết những nguyên nhân khởi sinh Khổ để chấm dứt Khổ (dukkha) từ trong chính Khổ (dukkha). Nói cách khác, sự diệt Khổ không nằm ngoài Khổ, mà nằm chính bên trong Khổ.

10.  Chú Giải thuật ngữ

Chú Giải 1:

Theo trật tự truyền thốngcông thức hay quy luật Duyên Khởi (Paticca Samuppada) được ghi như sau: 

(1)          Vô Minh làm (điều kiện, duyên) khởi sinh Hành. (Avijja paccaya sankhara).

(2)          Hành làm khởi sinh Thức. (Sankhara paccaya vinnanam).

(3)          Thức làm khởi sinh Yếu tố Vật Chất & Tinh Thần (Danh Sắc) (Vinnana paccaya Nama-rupam).

(4)          Yếu tố Vật Chất & Tinh Thần (Danh Sắc) làm khởi sinh Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Lục Nhập) (Nama-rupa paccaya Salayatanam).

(5)          Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc làm khởi sinh Tiếp Xúc (Salayatana paccaya Phasso).

(6)          Tiếp Xúc làm khởi sinh Cảm Giác (Phassa paccaya Vedana).

(7)          Cảm Giác làm khởi sinh Tham MuốnDục Vọng (Vedana paccaya Tanha).

(8)          Dục Vọng làm khởi sinh Dính Chấp. (Tanha paccaya Upadanam).

(9)          Dính Chấp làm khởi sinh Sự Trở Thành hay Sự Hiện Thành hay Nghiệp Hữu (Upadana paccaya Bhavo).

(10)     Sự Trở Thành làm khởi sinh sự Tái Sinh (Bhava paccaya Jati)

(11)     Sinh làm khởi sinh Già, Chết (Jati paccaya Jara-maranam).

  

Chú Giải 2:

Sankhara (Hành, tâm hành) có nghĩa là những hành động có tâm cố ý, do ý chí tạo tác, là những hành động tạo nghiệp và tái sinh (cetana). Hành có nghĩa là tạo nghiệp (kamma-formations). Có 3 loại tâm hành, đó là:

 a)             Punnabhi-sankharaHành thiện. Hành tạo nghiệp ở cảnh giới Sắc giới và những tầng (cảnh giớithiền Sắc giới (rupa jhanas) dẫn đến tái sinh ở những cảnh giới tốt, sung sướng như người, thần, trời (devas) và những cảnh sắc giới Phạm Thiên (brahmas).

b)             Apunnabhi-sankhara: Hành bất thiện. Hành tạo nghiệp dẫn đến tái sinh ở những cảnh giới xấu và đau khổ như thú, địa ngụcngạ qủy.

c)              Anenjabhi-sankharaHành bất động. Hành tạo nghiệp ở cảnh giới Vô Sắc giới và những tầng (cảnh giớithiền Vô Sắc giới (arupa jhanas) dẫn đến tái sinh ở 4 cảnh giới vô sắc giới.

Trong “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), Hành (sankharađại diện cho 29 loại nghiệp (kammagắn liền với: 8 Thức thiện của cõi sắc giới, 5 Thức cảnh giới thiền (jhanasVô Sắc giới, 12 Thức bất thiện và 14 Thức và    4 cảnh giới thiền (jhanasVô Sắc giới. Như vậy, Hành (sankhara) và nghiệp hữu (kammabhava) chính là một, là giống nhau, chỉ có điều Hành (sankhara) thuộc về kiếp sống quá khứNghiệp Hữu (kammabhava) thì thuộc về kiếp sống tương lai. 

Lưu ý:

Theo “Vi Diệu Pháp”, thì Thức hay tâm Thức chính là Tâm. Nên Thức và Tâm là một.

Sắc (HV) nghĩa là vật chất, có hình sắchữu hìnhSắc giới có nghĩa là cảnh giới có vật chất, có hình sắc (như cõi trời sắc giớicảnh giới Trời, Phạm Thiên…). Cảnh giới Vô sắc giới có nghĩa là cảnh giới không có  vật chất, phi vật chất, không có hình sắc (như cõi Vô biên xứ, Phi tưởng xứ). Đây là 2 trong 3 cảnh giớiCảnh giới còn lại là Dục giới, tức cảnh giới còn trong dục vọng chi phối, như cảnh giới người, địa ngục, Atula, súc sanhngạ quỷ.

11. Sách & Tài Liệu Tham Khảo

1)   “The Buddha-Dhamma” (Giáo Pháp Của Đức Phật), tác giả Bhikkhu Jagdish Kasyapa M.A. 

2)   “A Discourse on Paticcasamuppada” (Bài Thuyết Giảng Về Duyên Khởi), tác giả ngài Mahasi Sayadaw, Miến Điện, dịch qua tiếng Anh bởi U Aye Maung, thangS 3, 1982.

3)  “The Essence of Buddha Abhidhamma” (Cốt Lõi Của Vi Diệu Pháp Tạng của Đức Phật), Chương VIII, Duyên Khởi), tác giả Tiến sĩ Mehm Tin Mon. Xb bởi Mehm Tay Zar Mon, Yadanar Min Literature, 15/19 U Wisara Qr., Dagon, Yangon.

Tác giả: Chan Khoon San – do Lê Kim Kha  biên dịch Giáo trình phật học căn bản