Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đại Ý Kinh Lăng Nghiêm

29 Tháng Mười Hai 202210:33(Xem: 1565)
Đại Ý Kinh Lăng Nghiêm
Đại Ý Kinh Lăng Nghiêm

Chân Hiền Tâm


Sinh, Già, Bệnh, Chết

Phần Đại ý kinh Lăng nghiêm [1] này có sáu chương.

  1. Phật pháp và ý dục của nhân sinh
  2. Phật pháp và sự biến hiện của vũ trụ
  3. Hạnh môn trong kinh Lăng nghiêm với vấn đề Thiền Mật
  4. Quả vị trong kinh Lăng nghiêm với vấn đề đốn tiệm
  5. Trừ chướng trong kinh Lăng nghiêm
  6. Biện hoặc trong kinh Lăng nghiêm

    I. Phật pháp và ý dục của nhân sinh

Không phải túng dục, không phải tiết dục, không phải tuyệt dục
Đoạn trừ loại dục thấp hèn để mở rộng loại dục thù thắng
Do đó có phần duyên khởi kinh Lăng nghiêm


Pháp, nghĩa của nó rất rộng, ngày nay người đời dùng để gọi vạn vật vạn hữu trong vũ trụ, nhưng vậy vẫn chưa bắt kịp được nghĩa rộng của chữ pháp. Pháp của pháp giới, thông khắp tất cả pháp mà gọi tên. Gần thì như bản thân mỗi người. Xa thì như pháp giới ở mười phương. Nhỏ thì như một hạt bụi. Lớn thì như toàn quả địa cầu.

Pháp, tuy phủ khắp tất cả, nhưng tướng chân thật của pháp, tất cả chúng sinh do mê mà không biết, chẳng thể nhận được thực tướng của pháp thanh tịnh. Nhân đó mà tâm khởi điên đảo chấp trước.  

Người có thể tỉnh biết như thật, gọi là Phật, cũng gọi là Phật đà hay Phù đồ, tức là giác vậy.

Giác, là A-nậu-đa-la-tam miệu-tam Bồ-đề, đây gọi là Biến chánh giác vô thượng.

Giác nhân, là người tương ưng với thật tướng như như của vạn pháp. Nhơn nơi pháp đó mà như thật tỉnh biết các pháp. Cho nên, chỉ có Phật cùng Phật mới được chỗ rốt ráo.    

Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhậpTại thế giới này, hiện thân ứng hóa, vì khai thị cho chúng sinh mà phương tiện thuyết tam tạng và mười hai bộ kinh, gọi là Phật pháp. Kinh Lăng nghiêm cũng là một bộ kinh, do Phật tùy thuận chúng sinh, ứng cơ thuyết pháp mà khai thị cho họ. Phật đã hiện thân ở nhân gian mà thuyết phápNhân loại là một loại chúng sinh. Nay lấy nhân loại đại diện cho tất cả chúng sinh.   

Động lực căn bản của chúng sinh là ý dục. Ý dục, là một loại tác dụng tinh thần mang khuynh hướng mong muốn hòa hợpNguyên nhân khiến nhân loại cùng với tất cả chúng sinh tương tục chẳng dứt, sinh trưởng, phát triển, là do ý dục phát động. Kinh Pháp hoa nói: “Ba cõi xuất hiệntham dục là gốc”. Kinh A-hàm nói: “Hữu tình trong ba cõi đều nhờ thực mà trụ”. Trụ, là nghĩa sinh tồn tương tục.

Thực, phân thành bốn loại là đoàn thựcxúc thựctư thực và thức thực.

Đoàn thực và xúc thực thì thu nạp sáu trần, cấp dưỡng thân mạng. Đoàn thực, như mỗi ngày thu nạp thức ănXúc thực, chỉ cho áo quần để mặc, phòng ốc để ở, những gì được thấy, được nghe v.v. Vì thế, y phụcthức ăn, chỗ ở v.v. đều bao gồm trong một chữ thực.

Tư thực, là có hy vọng ở tương lai, hướng tới trước mà tiến, như trong lúc tuyệt vọng, vẫn một mực kiên trìcan đảm tiến lên. Đó là nghĩa “duy trì sinh mạng”.

Thức thực, chỉ cho thức thứ tám thu nạp bảy thức ngoài, huân thành các chủng tử nghiệp. Đó là nghĩa “duy trì thân mạng tương tục chẳng dứt”. Chúng sinh ở cõi Dục không lìa đoàn thựcPhi phi tưởng thiên, một loại thiền định rất sâu của cõi Vô sắcthân mạng tương tục, chẳng lìa thức thực. Cho nên, chúng sinh trong ba cõi đều y nơi thực mà tồn tại. Kinh Viên giác nói: “Chúng sinh cõi Dục đồng lấy dâm dục mà chỉnh tính mệnh”. Dục, bao gồm ngũ dục. Do sắc, thanh, hương, vị, xúc hoặc tài, sắc, danh, thực, thùy mà khởi dục.

Chúng sinh hữu tình và khí giới vô tình trong cõi Dục đều do hai tánh âm dương kết hợp mà sinh tồn. Như vật chất, theo khoa học mà nói thì điện tử là do điện âm xoay quanh hạch dương mà thành nguyên tử. Với chúng sinh hữu tình thì càng thêm sáng tỏ. Do cha mẹ hòa hợp mà thành thân mệnh, sinh mệnh tương tục. Phải do hai tánh hòa hợp mà thành tánh âm hoặc dương, rồi sau lại tìm cầu hòa hợp. Từ trái nghịch đến cộng hợp. Từ cộng hợp đến trái nghịch. Cho nên, đặc tính của cõi Dục là nương nơi dâm dụcDâm dục cũng là một loại ý dục, là một loại dục của nhân loạiNhân loại khi vừa sinh ra, đã có ý dục nam nữăn uốngChúng sinh ở cõi Dục nhờ vào thức ăn và sắc mà sinh mạng được tương tục, chẳng dứt tạo tác cùng hưởng thụ.

Cõi Dục này, đối với việc phát triển hay ngăn dứt ý dục của người đời, thánh hiền hào kiệt trong và ngoài nước chủ trương chẳng đồng.

1/ Thuyết Túng dục: Đối với ý dục, văn hóa Tây phương thời cận đại tha hồ phổ biến, càng không cấm chỉ. Phát triển và thỏa mãn ý dục đến mức có thể. Nên rồi chinh phục tự nhiênsáng tạo và sản xuất vật chấtvăn minh.  

2/ Thuyết Tiết dụcNho gia của Trung Quốc và hiền triết ở các nước, đa phần đều không chủ trương buông lung các dục, cần đặt nó trong hạn mức nhất địnhthực hiện tiết chế, không để quá mức.  

3/ Thuyết Tuyệt dục: Đạo gia và một bộ phận thuộc Tông giáo của Trung Quốc cùng một số luận phái Ấn độ v.v. tu thiền định, cầu giải thoátnhận ra ý dục của nhân sinh là căn bản khiến con người không thể an ổn, nên đối với ý dục, chủ trương dứt hẳn, vượt thoát. Cơ bản là không thu nạp ngũ dục như sắc, thực v.v. siêu vượt cõi Dục. Tu cái định của cõi trời Sắc và Vô sắc, đạt cái định Vô tưởng hay Phi phi tưởng định. Trong Phật giáo, pháp của hai thừa Thanh văn và Duyên giác siêu xuất ba cõi, dứt hẳn ý dục, chứng vô sinh, nhập Niết-bàn, cũng thuộc về thuyết Tuyệt dục này. 

Theo Phật pháp Đại thừa, với các dục thấp hèn mang tính ô nhiễm thì cần phải hàng phục và trừ diệtBuông lung theo các dục thấp hèn thì tai họa chẳng nhỏ, nên trừ ác cốt phải tận. Loại dục vô lậu thanh tịnh thù thắng cũng đồng là ý dục, nhưng nếu tiết chế loại dục thù thắng này thì lại gây trở ngại cho sự phát triển hướng thượng, nên cần hướng dẫn mở rộng. Chỉ có Phật pháp Đại thừa mới hàng phục trừ diệt loại dục thấp hènphát khởi loại dục thù thắng. Vì đó là Bát-nhã, đại bi và đại nguyện của pháp thân.    

Kẻ tu hành, phát loại tín gì, thú hướng thế nào, chỗ hành, chỗ đến, ở địa vị nào thứ lớp hàng phục trừ diệt loại dục thấp hèn để mở rộng loại dục thù thắng? Từ Bồ-tát hạnh đến khi thành Phật, có đoạn đứctrí đức và ân đứcĐoạn đức, là do hàng phục trừ diệt loại dục thấp hèn mà được. Trí và ân đức là do phát và đạt được loại dục thù thắng mà thành. Do đây có phần duyên khởi của kinh Lăng nghiêm.

Người đương cơ của kinh Lăng nghiêm là tôn giả A-nan-đà, một đệ tử của Phật, đa văn bậc nhất, phát tâm xuất giagiữ giới Tỷ-kheo, cầu quả A-la-hán trong tứ quả Sa-môn, hạng vị đó chưa phát tâm Bồ-đề và bi nguyện to lớn của Đại thừa. Kinh nói: “Một mình trên đường về, hôm ấy không có người cúng dường, A-nan bưng bình bát vào thành theo thứ tự khất thực”. Lúc ấy, vì A-nan chưa chứng thánh quả, đi khất thực nuôi thân, do có túc duyên mà gặp Ma-đăng-già. Kinh nói: “Đi qua nhà thổ, gặp đại ảo thuật Ma-đăng-già dùng chú Ta-tì-ca-la tiên phạm thiên bắt vào nhà thổ, thân dâm được vuốt ve sắp hoại giới thể”. Mẹ của Ma-đăng-già có chú thuật làm mê hoặc tính người. Lúc A-nan gặp khổ nạn chẳng thể tự cứu, nương lực đọc chú của Phật, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đến cứu thoátđồng thời dẫn Ma-đăng-già về xuất gia tu hành.       

Chúng sinh sinh tử luân hồi, duyên với thực dục và sắc dục, nên người mới tu dễ rơi vào các nạn đó. Cần nương uy lực không thể nghĩ bàn của Phật pháp Đại thừa mà cứu hộ. Chính chỗ này mà có phần duyên khởi của kinh Lăng nghiêm. Để rõ, Tiểu thừa không lực, tự cứu chẳng xong, nếu chẳng y theo uy đức của Đại thừa, lấy đó cứu hộ thì chẳng thể được. Để hàng phục chướng nạn của thực dục và sắc dục thấp hèn, phải nương tâm Bồ-đề và Tứ hoằng thệ, phát triển đại nguyện và đại dục. Cho nên, khi A-nan thoát khổ nạn, liền khóc lóc, cầu xin công đức tu hành thiền định của pháp Đại thừa.

A-nan nghe pháp khai ngộ xong, liền nói kệ:

Nguyện nay đắc quả thành Bảo vương

Độ lại hằng sa chúng như vậy

Mang thâm tâm hầu vô số cõi   

Đó gọi là đền báo Phật ân  


Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho

Ngũ trược ác thế thề vào trước

Nếu một chúng sinh chưa thành Phật

Quyết chẳng ở đây nhập Niết-bàn


Đại hùng đại lực đại từ bi 

Nguyện trừ kỹ các hoặc vi tế 

Khiến con sớm chứng Vô thượng giác

Ở mười phương giới ngồi đạo tràng

Y theo pháp sinh tử tương tục của cõi Dục, thân tâm đều không trong sạchNhất niệm trí tuệ tương ưng với sinh không và pháp không của Đại thừa, tất cả các dục thấp hèn đều được hàng phụcPháp thân chân như hiện tiền, liền phát triển Đại thừa thắng dục.     

Lấy việc “hàng phục trừ diệt các dục thấp hènmở rộng cái dục thù thắng” nói trên làm duyên khởi cho toàn kinh, mới có phần diễn giải văn kinh, trước sau bảy cuốn.    


II. Phật pháp và sự biến hiện của vũ trụ

Chẳng phải sắc tập, chẳng phải thần tạo, chẳng phải từ không ra

Tâm mê thì nghiệp buộc, tâm ngộ vượt suy lường

Do đây mà hiển thật tướng của Lăng nghiêm  

1/ Sắc tập

Sắc, nếu cho đó là vật chất, thì nghĩa chưa rõ bằng nói tứ đạingũ cănngũ trần. Các thứ này theo Phật điển gọi là sắc pháp. Các học gia Ấn Độ và Hy Lạp thời cổ đại thì nói vạn vật do gió, tức do không khí mà thành. Hoặc nói vạn vật do nước mà thành, do lửa mà thành, do đất mà thành. Hoặc nói do tứ đại hợp thành. Trung Quốc thì nói do ngũ hành mà thành. Các nhà khoa học hiện đại thì nói hiện tượng tinh thần thuộc về tâm lý, thể hữu cơ phát sinh từ sinh lý. Thể hữu cơ thuộc sinh lýVật chất do nguyên tố hợp thành là từ thể vô cơ. Theo khía cạnh hóa học mà phân tích thì vạn vật chẳng qua là do 89 loại nguyên tố vật chất mà thành. Từ nguyên tố vật chất phân thành phân tử, từ phân tử phân thành nguyên tử, nguyên tử lại phân thành điện tử. Nên vạn vật vũ trụ là do sắc pháp tập hợp mà thành.

2/ Thần tạo

Bà-la-môn giáo chấp nhận thế giới vạn vật là do Đại Phạm Thiên hoặc Đại Tự Tại Thiên sáng tạo và làm chủ tể. Tức tất cả đều do thần chi phối.

3/ Từ không ra

Vạn vật xuất hiện từ “hữu”. “Hữu” xuất hiện từ “vô”. Hư vô là gốc của Đạo. Hư vô là căn nguyên xuất sinh vạn hữu. Như các Đạo gia ở Trung Quốc, tại Ấn Độ cũng có ngoại đạo hư vô, gốc của vạn vật quy về không.

Trên đã liệt kê các loại học thuyết (ly, hợp, lẫn, tổng, phi thườngphức tạp) được cho là đại yếu, tạm phân thành ba loại trên mà nói.       

Như đã nói trên, vũ trụ biến hiện dường như có thể tướng nhất định với giới hạn không thể vượt qua. Kỳ thật, chúng sinh trong ba cõi sinh tử lưu chuyển vô thủyvô minhmê hoặcđảo điên, khởi nghiệp phiền não, được báo phần đoạn, mà có tất cả các sai biệt như lớn, nhỏ, mình, người v.v. Kinh nói: “Tất cả chúng sinh, từ vô thủy đến nay mê mình làm vật, lạc mất bản tâm, bị vật xoay chuyển, nên ở trong đó thấy lớn, thấy nhỏ. Nếu hay chuyển vật thì đồng Như Laithân tâm tròn sáng, chẳng động đạo tràng, trên đầu mảy lông thâu tóm mười phương quốc độ”. Nhân vì tâm mê nên chân tánh mà Phật cùng chúng sinh vốn bình đẳng không hai bị mê mất, nghiệp quả tương tục, khởi mọi thứ điên đảo phiền não, tạo mọi thứ nghiệp. Tâm mê nghiệp buộc mà thành thế giới và các loại chúng sinh. Tâm ngộ thì tất cả thế giớichúng sinhnghiệp quả, hạn lượng ngay đó vượt thoát. Tất cả chúng sinh đồng với pháp thân chư Phật. Thế giới và chúng sinh hiện có là tịnh độ của chư Phật. Vũ trụ biến hiện đại khái cũng như vậy. Kinh nói: “Chân tâm bảo giác thảy đều đầy đủ, nhưng ta ấn ngón tay thì hải ấn phát quang, ông vừa móng tâmtrần lao liền hiện khởi”. Chân tâm bảo giác đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh trang nghiêm, nhưng mê hoặc điên đảo chưa hết thì không thể tự tại, nên kinh nói: “Nghi hoặc tiêu trừ, tâm ngộ thật tướng”.           

III. Hạnh môn trong kinh Lăng nghiêm với vấn đề Thiền Mật 

Ngay các pháp mà thấu thông pháp tánh

Ngay gai định mà thành tựu tánh định

Lấy luật nghi thanh tịnh làm cơ sở

Lấy tụng trì mật chú làm phụ trợ

Đích yếu chủ chốt nhất của kinh Lăng nghiêm chính là hạnh môn được đề cập trong kinh.

A-nan gặp nạn Ma-đăng-già được Phật đọc chú độ thoát. Đến cuốn thượng quyển thứ bảy của bản kinh, A-nan lại thỉnh Phật thuyết chú. Khi Phật thuyết chú, trên đỉnh đầu phóng quang, nơi hào quang hiện Phật. Vì công đức tụng chú như vậy mà từ xưa đến nay không ít người cho Lăng nghiêm thuộc Mật tông. Thế nhưng quán sát toàn bộ nghĩa lý mạch lạc của kinh Lăng nghiêm, tứ chỗ làm rõ lý cho đến việc tu hành và chứng quả, thì phải đưa kinh trở về Thiền tông mới tương đối chính xác.

Hơn một ngàn năm trở lại đây, Lăng nghiêm rất phổ biến trong Thiền tông. Chưa kể trong kinh còn lấy luật nghi thanh tịnh làm nền tảng, lấy việc trì tụng chú làm phụ trợ, còn hạnh chính là Phản văn tam muội. Nếu chỉ thuần lấy chú nghi làm chính thì chẳng tương ưngThực ra, chỉ có pháp môn tu hành của Thiền tông là gần gũi nhất. Theo ý nghĩa của kinh mà quán xét, do việc cứu nạn Ma-đăng-già mà phát khởi việc chế phục loại dục thấp hèn, phát triển loại dục thù thắng, vượt khỏi ba cõi của Nhị thừa, từ chỗ làm rõ lý đến hạnh tu chính đều hợp với Thiền tông, chẳng đồng với phương tiện tu đại bi của Mật tông, vận dụng tham, sân, si để hành Tứ nhiếp pháp. Đây là quán xét hạnh môn của Lăng nghiêm ở mặt tổng tướng.

Từ năm ấmmười hai xứmười tám giới cho đến bảy đại rõ ràng đều là diệu tánh chân như. Y chân tánh này, do mê hoặc điên đảo mà thành sáu phàm lưu chuyển, do giác ngộ thấu rõ mà thành bốn thánh giải thoát. Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian đều y nơi diệu tánh chân như, hoặc mê, hoặc ngộ mà có. Mê thì phiền não sinh tử. Ngộ thì Niết-bàn giải thoát. Vì thế, tất cả pháp từ xưa đến nay đều là diệu tánh chân như. Ngay nơi các pháp mà thông đạt pháp tánh. Nếu một niệm trí tuệ tương ưng thì vô minhphiền nãophân biệt ngay đó sạch hết. Phàm phu chúng sinh chẳng lìa pháp năm ấmmười hai xứmười tám giới, bảy đại. Mỗi mỗi pháp tức là pháp thân Như Lai. Quán xét như thế, y nơi từng pháp, từng môn mà nhập đạo, mà giải thoát tất cả.                

Tôn giả A-nan đa văn, tập quán còn năng lực, dễ khởi phân biệt. Quyển thứ tư của bản kinh, A-nan đã nhận được sự chỉ dạy của Như Lai, vẫn còn tự thấy mình như kẻ lang thang, hốt nhiên được Thiên vương ban cho ngôi nhà đẹp, nhưng chẳng thể thấy cửa để vào. Như Lai vì người mà dạy hai loại nghĩa quyết địnhChúng sinh tứ đại ngũ trược trong thế giới này, muốn phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, để cái tâm ở nhân địa đồng với cái giác ở quả địa thì cần y nơi tâm không sinh diệt mà tạo tâm nhân địa. Cái tâm thánh phàm bình đẳng không hai này mới có thể cho quả địa giác bình đẳng không hai. Y đó mà phát khởi và thú hướng Bồ-đề, kiên cố chẳng hoại. Trước, nói rõ lý thật tướng của các pháp. Sau, tăng tu thiền định, chứng được định ích, đối trị định bệnh. Tất cả đều y đó làm nền tảng.            

Từ sáu căn mà thuyết minh sáu trần, sáu thức và mười tám giới. Hiển rõ công đức sâu, cạn, rộng hẹp của sáu căn. Căn tai, căn lưỡi, căn ý thì công đức đầy đủ. Căn mắt, căn mũi, căn thân thì công đức kém khuyết. Nhờ đó mới biết chọn lựa, nương vào loại pháp nào để tu. Thánh phàm trong pháp giới y nơi sáu căn, lấy đó làm căn bản. Y nơi căn đầy đủ tu hạnh viên thông so với việc y nơi căn không đầy đủ, một ngày ngang với một kiếp. Muốn y nơi sáu căn, tìm một thứ tối viên thông để tu, thì lựa ra căn tai. Ngay nơi tứ đại và ngũ trược mà thấy cái tánh không sinh diệt. Nương cái tánh không sinh diệt đó làm tâm nhân địa. Đó là căn bản thứ nhất. Kế, phải rõ căn bản của tất cả sinh tử phiền não cũng ở tại sáu căn. Muốn nắm được chỗ tu hành thì lựa ra căn tai lấy đó làm môn tu hành viên thôngMười phương Như Lai y một môn này mà thâm nhập, chứng Vô sinh nhẫn, được đại giải thoát. Kinh nói: “Ông nay muốn khiến cái thấy, nghe, hiểu, biết của mình về lâu xa khế hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai thì trước cần phải lọc ra cội gốc của sinh tử, y nơi tánh không sinh diệt vắng lặng trùm khắp mà thành tựu”. Cũng nói: “Ông đối với mười hai tướng hữu vi động-tĩnh, hợp-ly, định-chuyển[2], thông-bít, sinh-diệt, sáng-tối, chỉ cần không theo. Tùy chọn một căn, hàng phục và giải thoát sự chấp dính bên trong, thuận chân về nguồn, phát tánh sáng diệu sẵn có. Diệu tánh phát sáng thì năm chấp dính còn lại theo đó mà mất, giải thoát viên mãn. Chẳng do tiền trần mà khởi thấy biết thì cái sáng chẳng theo căn, chỉ gá nơi căn mà phát sáng, do đây sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau”. Phật và Bồ-tát ở mười phương, y nơi pháp mười tám giới này đều có thể lấy đó làm pháp môn ngộ nhập.                         

Trên đại điện chùa tôi, có chưng bày chư thánh được căn viên thông trong kinh Lăng nghiêm, hai bên là 24 vị, tính cả Quán Âm ở giữa là 25 vị. Từ Kiều Trần Như, theo âm thanh ngộ nhập được thành A-la-hán, cho đến Đại Thế Chí, Di-lặc, theo căn đại, thức đại mà thấu đạt pháp tánh, nhập Vô sinh nhẫn.

Để tu thiền định, Văn-thù-sư-lợi chọn môn Nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Âm, là hợp cơ nhất. Từ nhĩ căn thấu đạt tánh vô sinh của pháp. Tuy chúng sinh tâm mê nghiệp buộc mà nhĩ căn khi ngủ vẫn chẳng mù mờ. Kinh nói: “Người ấy khi đang chiêm bao, đâu nhớ các thứ động, tĩnh, đóng, mở, thông, bít. Tuy ngủ say mà tánh nghe không mù mờ. Dù cho hình hài ông có tiêu tan,  mệnh quang dời đổi, tánh nghe này làm sao vì ông mà tiêu mất?” Cho nên, nghĩa thông thường của viên thông là “tối đầy đủ”.      

Tam-ma-địa, đây gọi là “định”, cũng gọi là “tam muội”, dịch thẳng là “đẳng trì”. Bình đẳng nhậm trì nhiếp phục tâm phan duyên sáu trần để đạt định tâmDựa vào pháp “phản văn” mà tu thiền định thì dễ lìa tán loạnĐịnh tâm thành tựu thì chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, chẳng duyên năm trần, chẳng khởi năm thức, định tâm tương ưng tại ý thứcchuyên chú chẳng loạn. Nếu đạt được chân thì tâm chánh định thành tựu. Đi, đứng, nằm, ngồi thường trong thiền định. Song tu thiền định mà nắm được công phu trong tay là nằm ở việc tĩnh tọa. Ngồi thì có thể an ổn điều hòa. Nhãn quang đóng, cắt cảnh trước mắt. Mũi, lưỡi dừng phân tích hương, vị. Thân tâm điều hòa thì các xúc giác như lạnh, nóng, nặng, nhẹ, đói, no cũng chẳng khởi. Lúc đó thứ khó lìa nhất là âm thanh, đối tượng của tai. Trong phần kinh luận trên có giảng âm thanh là cái gai của định (gai đinh). Vì gai, khi chích vào thân thịt sẽ khiến đau đớnbất anÂm thanh cũng là gai chích vào định tâm, khiến tâm chẳng an ổn, chẳng thành lâu dài tương tục. Cho nên, khi chỉ tịnh thì đánh bản để âm thanh dừng yên, muốn rời khỏi tịnh cũng dùng tiếng khánh hay tiếng bản.

Xưa, ở tỉnh Tứ Xuyên, gió thổi ngã một cây đại thụ, trong có một Tăng nhân đang nhập định, tợ như chết mà chẳng phải chết, vì chưa dứt hơi ấm. Quan địa phương đưa Tăng nhân về kinh đô, mời đại đức Phật giáo đến cho một pháp xuất địnhđại đức bèn kề tai Tăng nhân đánh khánh, Tăng từ từ xuất định. Có thể thấy, định tâm chẳng được kiên trụ, chẳng dễ tương tục mà nghe tiếng là then chốt rất lớn, rất sâu. Nghe tiếng khiến từ định tâm khởi tán loạn phân biệt. Cho nên, tu thiền định, sau khi thân tâm điều hòa, nương nơi “nhĩ căn phản văn”, lấy đó làm phương tiện tối thắng dừng tán loạn. Kinh nói: “Đầu tiên ở nơi cái nghe, nhập lưu vong sở, sở nhập đã tịch, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sinh. Như vậy dần dần tăng tiến, nghe và sở nghe đều dứt, chỗ dứt cái nghe cũng chẳng trụ, giác và sở giác đều không, không và giác cực viên mãn, không và sở không đều diệt. Sinh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiềnhốt nhiên siêu việt thế gian và xuất thế gian”. Tu trì thế nào? Là ngay nơi cái nghe, nhập dòng quên sở, ngược dòng nghe để quay vào lại cái nghe. Sở nghe mất thì năng nghe cũng chẳng thể. Phản văn để nghe diệu tánh chân như của Như Lai tạng, dung hóa căn nghe, vào cảnh giới nhân không. Thấy, nghe, hiểu, biết của sáu căn dung hóa thành một thể diệu giác viên minhchứng pháp Niết-bàn sinh không chân như. Tiến đến giác và sở giác đều không, ngộ nhập pháp không, tất cả đều không. Không và sở không đều diệt, ‘cùng với không’ chẳng sinh. Tất cả sinh diệt đối đãi đã có đều vượt thoát, tịch diệt hiện tiềnsiêu việt thế và xuất thế gian, pháp pháp đều thành giải thoát, trần trần đều chứng Bồ-đề. Đây là từ “Nhĩ căn phản văn” mà vào tam-ma-địa. Nên kinh nói: “Xoay lại, nghe và tiếng đều giải thoát thì năng thoát dục gọi là gì? Một căn đã về nguồn, sáu căn thành giải thoát”.      

Lại nữa, kinh nói: “Muốn nhiếp tâm vào tam-ma-địa, vậy làm thế nào để an lập đạo tràngxa lìa ma sự?”. Muốn vậy, trước phải lấy việc thanh tịnh bốn giới căn bản (dâm, sát, trộm và vọng ngữ) làm cơ sở quyết định cho việc tu nhĩ căn viên thông. Kinh nói: “Trước cần phải trì bốn loại luật nghi trong như băng tuyết thì chẳng thể tự sinh tất cả cành lá. Ba thứ thuộc tâm, bốn thứ thuộc khẩu nhất định không có nhân để sinh”.         

Nếu có người thọ giới chưa đầy đủ, trì giới chưa đủ thanh tịnh, nhân có túc tập chưa thể trừ diệt thì nên lấy việc trì tụng mật chú làm phụ trợ. Kinh nói: “Nếu có túc tập chẳng thể diệt trừ thì ông dạy người đó nhất tâm tụng thần chú “Phật đảnh quanh minh ma-ha-tát đát-đa-bàn đát-la vô thượng” của ta”. A-nan nếu không có túc tập, chẳng rơi vào cái nạn Ma-đăng-già, ắt việc trì giới tu định của ông chẳng cần đến Phật chú cứu hộ.

Từ trên đến đây, làm sáng tỏ hạnh môn ngộ diệu tánh chân như mà tu viên thông

IV. QUẢ VỊ TRONG KINH LĂNG NGHIÊM VỚI VẤN ĐỀ ĐỐN TIỆM 

Từ điên đảo loạn tưởng, chỉ ra mười hai loại sinh

Y định Thủ lăng nghiêm, mở bày năm mươi bảy vị

Do hạnh tăng tiến, trải dần qua các vị

Được tâm kim cang mà đốn khởi các vị

Nếu chẳng rõ quả vị của Lăng nghiêm, khởi tăng thượng mạn, thì chẳng những không được lợi íchtrái lại còn dễ bị đọa. 

Kiến tánh thành Phật là pháp môn đốn ngộ, nên không có thứ lớp. Ngay nơi sự mà tỏ lý, không gì là không đốn. Ngay nơi lý mà tỏ sự thì có thứ lớp. Trong đốn có tiệm, là trong đốn ngộ có tu chứng thứ lớp. Trong tiệm có đốn, là trong tiệm tu có giác ngộ đốn phát. 

Chúng sinh điên đảo loạn tưởng, từ vô thủy đến nay mê vọng bất giác nên có noãn sinhthai sinhthấp sinhhóa sinhhữu sắcvô sắchữu tưởngvô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, có mười hai loại sinh như thế. Kinh nói: “Trong mỗi loại chúng sinh như thế, đều đủ mười hai thứ điên đảo. Giống như dụi mắt thì hoa đốm phát sinh, điên đảo thì minh tâm diệu viên chân tịnh đầy đủ loạn tưởng hư vọng như thế". Vì muốn vượt thoát thế giới chúng sinh, chứng được Niết-bàn, thành tựu Bồ-đề, mà mở bày 57 giai vị, là Càn huệ địaThập tínThập trụThập hạnhThập hồi hướngTứ gia hạnhThập địaĐẳng giácDiệu giác.

Thế nào là ba loại thứ lớp? Kinh nói: “Một, tu tập trừ trợ nhân. Hai, thật tu bày chánh tánh. Ba, tăng tiến lìa hiện nghiệp”. Tu tập trừ trợ nhân là đoạn trừ ngũ vị tân. Nay thì thuốc lá, rượu bia, cờ bạc cũng thuộc trợ nhân, đều cần phải trừ. Thật tu bày chánh tánh là nghiêm trì giới luật thanh tịnhTăng tiến lìa hiện nghiệp là xoay cái thấy thấy tự tánh, xoay cái nghe nghe tự tánhthủ hộ căn môn, không để sáu căn phóng dật theo sáu trầnNhân giới sinh định. Đó là ngược dòng sáu căn, thuận một thể giác. Trì giới tánh sáu căn thì ba thứ thuộc thân, bốn thứ thuộc miệng tự nhiên thanh tịnh. Kinh nói: “Diệu viên bình đẳng, được đại an ổn, tất cả mật viên tịnh diệu của Như Lai đều hiện trong đó, người này liền được Vô sinh pháp nhẫn. Từ việc tiệm tu này, tùy chỗ phát hạnh mà an lập thánh vị”.

Tâm kim cang, là Vô gián đạo trước khi thành Phật. Nếu một vị nhiếp tất cả vị thì trên mỗi một vị đầy đủ 55 vị, là con đường Bồ-đề chân thật. Nơi tâm kim cang ấy, trải qua lại 55 vị, đều là an lập vị thứ trong cái định Thủ lăng nghiêm, là pháp môn ngay tiệm mà đốn. Kinh nói: “Từ tâm Càn huệ đến Đẳng giác rồi, giác đó mới được sơ Càn huệ địa trong tâm kim cang, như thế mà đơn kép trùng trùng mười hai vị mới cùng tột Diệu giácthành đạo vô thượng”.  

V. TRỪ CHƯỚNG TRONG KINH LĂNG NGHIÊM

Si, ái giúp bảy đường chuyển

Mạn, kiến giúp ngũ ấm ma

Nói nghiệp báo trừ giới chướng

Luận tâm cảnh trừ định chướng 

Người mới học thiền định, khi được định cảnh, như bất chợt đến vùng sa mạc, cảnh giới của một khối sa mạc rộng lớn không có giới hạn, trước nay chưa từng trải qua, tuyệt chẳng phải là đất cảnh nhân gian tầm thường. Tới chỗ này thời dễ khởi mê hoặc. Theo ngũ ấm mà thứ lớp phát hiện cảnh của nó. Từ cảnh giới sắc ấm hiện đến cảnh giới thức ấm dừng, đều là tác dụng phụ của định tâm hiện khởi. Mê lầm, cho là cảnh giới thánh thì đó là tà ma. Cho nên trừ định chướng là thiết yếu, chẳng thể coi thường. Chẳng sinh tà kiến thì tự hay trừ khử ma chướng. Phải quán tất cả pháp vốn là Như Lai tạng diệu tánh chân như thì tất cả chướng không từ đâu phát sinh, không cần phải đối trị. Nếu tâm mê điên đảo liền thành căn bản của chướng. 

Si ái là tham si. Kinh nói: “Như vậy địa ngụcngạ quỷsúc sinh, người, thần tiên, trời, cho đến A-tu-la, bảy đường đó xét cho kỹ đều là các tướng hữu vi trầm tối”. Do si ái mà có bảy đường địa ngụcngạ quỷsúc sinh, người, tiên, trời, A-tu-la lưu chuyển. Muốn thoát khỏi bảy đường lưu chuyển này, cần phải trì tịnh giới, giới trừ tham si, và quán trở lại tự tánh thanh tịnh.  

Ngũ ấm ma là từ mạn và kiến mà khởi. Tăng thượng mạn, được ít cho là đủ, tự cho đã chứng thánh quả mới chiêu cảm ma sự. Nơi định tâm khởi cái thấy bất chánh như đoạn, thường v.v. liền gia nhập ngoại đạo. Kinh nói: “Ma cảnh hiện tiền, ông chẳng thể biết, lọc tâm chẳng chánh, lạc vào tà kiến. Lại ở trong đó được ít cho là đủ, như Tỷ-kheo Vô Văn được đệ tứ thiền, vọng nói chứng thánh, liền đọa vào ngục A-tỳ”. Muốn trừ ngũ ấm ma thì nên tiêu trừ cái thấy bất chánh và tăng thượng mạn. Tâm tu định chính là chủ nhân. Chủ nhân nếu mê, khách tà ma liền được dịp. Tâm có không thì cảnh có không, giác ngộ không mê thì thường không trở ngại. Kinh nói: “Do nơi tâm ông, ngũ ấm là chủ nhân, chủ nhân mê thì khách được thuận tiện. Ngay trong thiền nagiác ngộ không lầm thì ma sự kia không làm gì được ông”.

Muốn thoát khỏi bảy đường nghiệp báo luân hồi, cần trừ ba hoặc là sát, đạo, dâm. Kinh nói: “Muốn được Bồ-đề, cần trừ ba hoặc. Ba hoặc không hết thì dù được thần thông, đều là công dụng hữu vi ở thế gian”. Muốn thành tựu Định Tuệ, cần có chánh kiến và chẳng khởi tăng thượng mạn. Kinh nói: “Ma cảnh hiện tiền, có thể thấu hiểu, cấu tâm tẩy trừ, chẳng đọa tà kiến”.                     

VI. BIỆN VỀ HOẶC TRONG KINH LĂNG NGHIÊM

 A. PHẦN GIÁO LÝ

Hai căn bản với chân tâm luận 

Bảy đại với duy căn luận 

Mười hai loại sinh với pháp thân luận

1/  Hai căn bản với chân tâm luận

Kinh nói: “Một, căn bản sinh tử từ vô thủy. Đó là tâm phan duyên mà hiện nay ông cùng các chúng sinh lấy đó làm tự tánh. Hai, cái thể Bồ-đề Niết-bàn vốn thanh tịnh từ vô thủy. Chính là thức tinh nguyên minh của ông hiện nay hay sinh các duyên mà bị các duyên bỏ quên”. Bị các duyên bỏ quên, là giác tri không thể đến. Kinh cũng nói: “Từ vô thủy đến nay sinh tử tương tục đều do không biết chân tâm thường trụthể tánh sáng tịnh, lại dùng các vọng tưởng. Tưởng này chẳng chân, nên có luân chuyển”. Đây đều là luận về chân tâm, nói vọng để rõ chân.

Trong toàn bộ văn kinh, có một tư tưởng trọng tâm nhất quán, đó là chân tâm thường trụ, nên bản kinh lấy chân tâm thường trụ làm nền tảng. Tín giải, là rõ được cái lý chân tâm thường trụTu hành, là trừ các thứ làm chướng chân tâm thường trụChứng quả, là chứng cái đức của chân tâm thường trụ

          

2/ Bảy đại với duy căn luận

Đất, nước, gió, lửa là bốn đại. Cùng với không đại và thức đại là sáu đại. Đây kinh đặc biệt thêm căn đại, thành bảy đại. Vì đó mà có phần triển khai là luận về duy căn. Kinh nói: “Như một căn thấy, thấy khắp pháp giới. Nghe, ngửi, nếm, chạm, nhận biếtdiệu đức trong suốt trùm khắp pháp giới, đầy hết mười phương hư không, không có chỗ nơi”. Cũng nói: “Ông muốn biết cái câu sinh vô minh khiến ông luân chuyển sinh tử và có các căn, chính là sáu căn của ông, hoàn toàn không có thứ gì khác. Ông nếu muốn biết Bồ-đề vô thượng khiến ông chóng chứng tâm diệu thường tịch tĩnh giải thoát an lạc cũng là sáu căn của ông, hoàn toàn không có thứ gì khác”.

Căn đại cùng với việc tu nhĩ căn viên thông có quan hệ khá mật thiết. Kinh này nói đến căn và thức, so với những gì luận Duy thức nói thì giới hạn không đồng. Luận Duy thứcphạm vi của thức sâu rộngKinh Lăng nghiêmphạm vi của căn sâu rộng. Cho nên, luận về duy căn và duy thức có đối lập, dùng căn nhiếp tất cả pháp.

Tôi, khoảng mười năm về trước, từng làm ra ba loại duy luận là duy thức, duy căn và duy cảnh. Luận duy căn là chỗ đặc dị của kinh Lăng nghiêm, dùng căn không dùng thức, vì sáu thức hiện lượng đều nhiếp tại sáu căn.

3/ Mười hai loại sinh với pháp thân luận 

Kinh nói: “Nếu diệu tâm chân tịnh diệu minh xưa nay tròn khắp, vậy thì hết thảy cây, cỏ, đất đai, các loài hàm linh máy động vốn nguyên là chân như, chính là chân thể thành Phật của Như Lai. Phật thể chân thật, vì sao lại có các đường địa ngục, ngạ qủi, súc sinh, A-tu-la, người và trời?”. Mười hai loại sinh bao gồm các vật vô tình như vàng, đá, gỗ, đất, núi, sông, đại địa v.v... Như vậy ắt chúng sinh hữu tình luân chuyển trong sinh tử có thể biến thành vô tình. Đây không đồng với giáo nghĩa được nói ở các kinh luận khác. Nhưng kinh Lăng nghiêm đúng là do Phật thuyết, chỉ vì điểm căn cứ có khác mà thôi. Chúng sinh thế giới tức là chân thể thành Phật của Như Laiví như toàn biển mà thành sóng, sóng khắp tất cả biển. Pháp thân thành hữu tình vô tình thì hữu tình vô tình đều là pháp thân. Kinh nói: "Tình cùng vô tình đều thành Phật đạo”.

B. PHẦN KHẢO CỨU

Giải thích tên Thủ lăng nghiêm và khảo cứu phần chú trong kinh 

Kinh nữ Ma-đăng-già với bản kinh

Phiên dịch và lưu truyền bản kinh

1/ Giải thích tên Thủ lăng và khảo cứu phần chú trong kinh 

Thủ lăng nghiêm, Trung Hoa dịch là “kiện hạnh”. Xưa nay các nhà chú giải kinh này thường dịch là “Tất cả sự rốt ráo kiên cố". Tất cả sự, là hạnh. Rốt ráo kiên cố, là kiện. 

Kinh này, nói giản lược là Lăng nghiêm, nói đầy đủ là Đại Phật đảnh Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa chư Bồ-tát vạn hạnh Thủ lăng nghiêm.

Một tên nữa là Trung Ấn Độ Na-lan-đà đại đạo tràng kinh, nơi bộ Quán đảnh ghi ra các biệt hạnh. Nghĩa là, kinh này được ghi ra từ bộ Quán đảnh trong tạng kinh của chùa Na-lan-đà.

Ngoài ra còn có Phật thuyết thủ Lăng nghiêm tam muội kinh, một quyển, do Cưu-ma-la-thập dịch, so với kinh này thì không đồng bản, chỉ chuyên thuyết về thần dụng và công đức của Phật và Bồ-tát khi được tam muội này.  

Chú Lăng nghiêm ấn định cho Tăng chúng tụng vào sáng sớm, kỳ thật chỉ mười câu từ sau mấy từ “Đát-điệt-tha" trở đi mới là tâm chú. Còn trước là nghi thức cúng lễ tán tụng năm hội: Một, Tì-lô chân pháp hội. Hai, Thích Tôn ứng hoá hội. Ba, Quán Âm hợp đồng hội. Bốn, Cương tạng chiết nhiếp hội. Năm, Văn-thù hoằng truyền hội. Những giải thích chi tiết này được lấy ra từ chương trích và chú giải chú trong sớ Quán đảnh

Một kinh gần đồng với danh nghĩa của kinh chú này, là Đại Phật đảnh Như Lai phóng quang tất-đát-đa bát-đát-la đà-la-ni, do ngài Bất Không dịch, thuộc Tục tạng, trọn bộ bốn quyển. Ngoài ra, còn có kinh Phật đảnh đại bạch tản cái đà-la-ni, do Sa-la-ba dịch; kinh Phật thuyết đại bạch tản cái đà-la-ni, do Nguyên và Chân Trí v.v. dịch. Hai kinh này có luôn phần nghi thức tụng chú ở trong Tần-già tạng, bộ đầy đủ sáu cuốn. Ngoài ra còn Bạch tản cái đại Phật đảnh vương tối thắng vô tỷ đại uy đức kim cang vô ngại đại đạo tràng đà-la-ni niệm tụng pháp yếu. Cuốn này, trong Tần-già tạng thấy còn bộ một quyển, trong Tục tạng thì ba bộ một quyển. Chỉ thấy Đông Mật ghi nghi thức tụng, không rõ người dịch.

2/ Kinh Nữ Ma-đăng-già và bản kinh

Kinh Nữ Ma-đăng-già, hai quyển, do Trúc Luật Đàm và Chi Khiêm người Thiên Trúc đời Ngô dịch. Kinh Xá-đầu gián thái tử thập nhị bát túc, một quyển, do Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch. Hai kinh này đồng bản mà khác phần dịch, nêu rõ túc duyên giữa A-nan và Ma-đăng-già. Ngoài ra, còn có Phật thuyết nữ ma đặng kinh, một tờ, đời Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao nước An Tức dịch; Phật thuyết ma đặng nữ giải hình trung lục tự kinh, một tờ, ghi đời Đông Tấn, không rõ người dịch. Hai kinh này đồng bản mà khác phần dịch, chỉ thuyết A-nan bị khốn được chú của Phật cứu độ.      

3/ Phiên dịch và lưu truyền bản kinh

Kinh này được phiên dịch và ghi chép xong vào ngày 23, tháng 5, năm Ất Tỵ, niên hiệu Thần Long đời Đường Trung Tông, do Tam tạng sa môn Bát Thích Mật Đế người Trung Thiên Trúc dịch tại đạo tràng Chế Chỉ ở Quảng Châu. Lược sơ về thời gian hoàn thành là như vậy. Theo Khai Nguyên Lục thì sa môn Hoài Địch đời Đại Đường ở Quảng Châu dịch. Bản lưu hành hiện nay, còn phải nói thêm bản của sa-môn Di-già Thích-ca nước Ô Trành dịch ngữ, Phòng Dung ở Thanh Hà chép truyền.

Kinh này được truyền rộng, tương truyền là do tướng Phòng Dung chép kinh dâng lên vua, đang lúc Trung Tông mới lên ngôi, chưa rảnh mà ban hànhthiền sư Đại Thông Thần Tú, lúc đó đang ở trong đạo tràng, thấy bản tấu, chép ra cho lưu hành ở đất bắc, đồng thời sao lại một bộ mang về chùa Độ Môn ở Kinh Môn. Sa-môn Tuệ Chấn ở Quán Đào, được khoa giải, là người đầu tiên truyền rộng ra. Đến năm thứ 10 Thiên Bảo có pháp sư Duy, nơi nhà của Phòng Dung, được bản viết tay của ngài, bắt đầu tạo chú sớ. Cũng tương truyền, Mật Đế trước đã từng đến Trung Quốc, thấy môn Chỉ Quán của đại sư Trí Giả, cho là hơi giống Lăng nghiêm. Trí Giả nhân đó thỉnh phiên dịch để truyền đến Trung Quốc

Lăng Nghiêm được truyền rộng với bốn nhà có nguồn gốc sâu là Thiền, Thiên Thai, Hiền và Nho. Sau đời Đường, đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh, không thiếu người hoằng dương Lăng nghiêm.

Thiền gia thì có thiền sư Đạo Hiến ở Trường Khánh, thiền sư Trí Giác ở Vĩnh Minh, thiền sư Lặc Đàm Hiểu Nguyệt, Thiền sư Thạch Môn Viên MinhThiền sư Ôn Lăng Bảo ThắngThiền sư Trung Phong Minh Bản, cùng với Thiên Như và Tử Bá v.v…

- Hiền gia thì có pháp sư Tắc Tư Trung Hoằng Thẩm, pháp sư Trưởng Thủy Tử Tuyềnpháp sư Lỗ Sơn Phổ Thái, pháp sư Giao Quang Chân Giám, pháp sư Từ Vân Tục Pháppháp sư Đạt Thiên Thông Lý v.v…  

Thiên Thai gia thì có pháp sư Tắc Cô Sơn Trí Viênpháp sư Đồng Châu Hoài Thản, pháp sư Thiên Thai U Hoát, pháp sư Linh Phong Ngẫu Ích v.v…

Nho gia thì có Tắc Vương Giới Phủ giải thích, Trương Vô Tận chú thêm, Tằng Phượng Nghi  tông thông, Tiền Khiêm Ích Mông sao chép v.v…

Pháp sư Không Ấn ở Ngũ Đài Sơn và pháp sư Ngẫu Ích thì dần dà dùng nghĩa của pháp tướng để nói kinh Lăng nghiêm

Cuối đời Đường trở lại đây, Tam luận thì biến mất mà Duy thức cũng chẳng thịnh, nên ít ai thông thấu được kinh này. Có khi cũng dùng nghĩa của các tông đó sớ giải nhưng sơ sài khái lược. Do đó, người gần đây cứ y vào nghĩa của tam luận hoặc Duy thức đó mà sinh phỉ báng và chống đối.  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 570)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 562)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1317)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 930)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant