Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chân Như Nhất Thừa

30 Tháng Mười Hai 202210:39(Xem: 1296)
Chân Như Nhất Thừa

Chân Như Nhất Thừa

Nguyễn Thế Đăng

hinh phat 13

 

1/ Không có gì thối chuyển trong Chân Như

Tiếp theo, trong phần cuối của phẩm Đại Như, kinh vẫn tiếp tục khai thị về Chân Như ở một cấp độ tinh tế hơn, đòi hỏi người nghe một mức độ Văn Tư Tu cao hơn, trực giác và trí huệ sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn.

Các khai thị này có tính cách trực tiếp hơn, đốn giáo hơn, trực chỉ hơn, như trong các cấp bậc cao của Đại Ấn (Mahamudra), Đại Toàn Thiện (Maha AtiDzogchen), Thiền tông… Chẳng hạn khi đức Phật nói “Vô thượng Giác ngộ rất khó được”, thì ngài Tu Bồ Đề lại thưa với đức Phật rằng “Vô thượng Giác ngộ rất dễ được, vì…”

 

Lúc bấy giờ, chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vô thượng Giác ngộ thật khó được (đắc). Vì sao thế? Vì đại Bồ tát phải biết tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, mà pháp ấy cũng chẳng thể đắc.

Phật dạy: Đúng như vậy. Này các Thiên tử! Vô thượng Giác ngộ rất khó được. Phật cũng đã được nhất thiết chủng trí về tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, cũng không chỗ được, không có cái hay biết, không có cái được biết, không có người biết. Vì sao thế? Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh vậy.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Như lời dạy của Phật, Vô thượng Giác ngộ rất khó được. Như con hiểu nghĩa của Phật dạy thì Vô thượng Giác ngộ này rất dễ được. Vì sao thế? Vì không có người được Vô thượng Giác ngộ, cũng không có pháp có thể được. Tất cả các pháp, tất cả pháp tướng Không, không có pháp có thể được, không có người có thể được, vì tất cả pháp Không vậy. Cũng không có pháp có thể tăng, cũng không có pháp có thể giảm. Từ bố thícho đến nhất thiết chủng trí, các pháp này đều không có cái để được, không có người được.

Do nhân duyên ấy nên theo ý con thì Vô thượng Giác ngộ dễ được. Vì sao thế? Vì sắc, sắc tướng Không cho đến nhất thiết chủng trínhất thiết chủng trí tướng Không”.

Từ sắc đến các pháp ba la mậtcho đến trí huệ cao nhất là nhất thiết chủng trí đều là tướng Không. Trong tướng Không đó, không tìm đâu ra người đắc và pháp có thể đắc, không có bất cứ một pháp gì nên không có sự tăng giảm. Đó là điều đức Phật nói, “Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh vậy”.

Thế nên, Vô thượng Giác ngộ là dễ đắc, vì xưa nay chưa từng có người tu, chưa từng có các pháp để tu, chưa từng có người để đắc.

“Tất cả pháp Không” nghĩa là các pháp xưa nay rốt ráo thanh tịnh, trong đó không có những khái niệm người được, cái để được, mọi khởi niệm chủ thể và đối tượng đều không có. Đây là tánh Không rốt ráo thanh tịnh.

Ngài Xá Lợi Phất với nói với ngài Tu Bồ Đề: Thưa ngài, nếu tất cả pháp Không như hư khônghư không không khởi niệm rằng ta sẽ được Vô thượng Giác ngộ. Nếu đại Bồ tát tin tất cả pháp Không như hư không nên Vô thượng Giác ngộ dễ được thì tại sao hiện nay có hằng hà sa Bồ tát cầu Vô thượng Giác ngộ lại bị thối chuyển? Thế nên biết rằng Vô thượng Giác ngộ chẳng phải dễ được”.

Ngài Xá Lợi Phất là một vị đại A La Hán, hẳn ngài thấu rõ “tất cả pháp Không” nhưng ngài cố tình hỏi ngài Tu Bồ Đề, vị “hiểu Không đệ nhất”, cốt để cho những người các thế hệ sau bỏ những nghi ngờ, tin hiểu tánh Không mà chuyên tâm thực hành.

 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đối với Vô thượng Giác ngộ là có thối chuyển chăng?

Ngài Xá Lợi Phất đáp: Không có thối chuyển”.

“Sắc, thọ, tưởng, hành, thức với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?” Câu hỏi như một công án mà thấu suốt được nó sẽ phá tan sanh tử của sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Bởi vì với chúng sanh chúng ta, sắc họ tưởng hành thức, những thứ tạo thành con người, là vô thường, sẽ đem lại khổ đau trong sanh tửVậy mà ý ngài Xá Lợi Phất nói là chúng không thối chuyển đối với Vô thượng Bồ đềCần phải thiền định thiền quán thật nhiều để những lời đối đáp của hai vị không phải là vô ích, không phải là văn chương hý luận.

Sắc, thọ… không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ là thế nào? Vô thượng Giác ngộ dĩ nhiên là không thối chuyển, nhưng sắc, thọ,… không thối chuyển là thế nào?

 

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có pháp gì thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ chăng? Cho đến lìa nhất thiết chủng trí có pháp gì thối chuyển chăng?

- Không có pháp gì thối chuyển”.

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ, mà lìa sắc, thọ, tưởng, hành thức cũng không có pháp nào thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ.

Tại sao tất cả pháp đều không thối chuyển mà lìa tất cả pháp cũng không có sự thối chuyển nào cả? Bởi vì:

Tất cả pháp không sanh

Tất cả pháp không diệt

Nếu rõ được như vậy

Chư Phật thường hiện tiền.

(Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Dạ ma cung kệ tán)

Bài kệ này cũng là những lời cuối cùng của Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông nói cho đệ tử Bảo Sát trước khi nhập diệt ở núi Yên Tử.

 

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ý ngài thế nào? Sắc tướng Như, thọ tướng Như, cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Lìa sắc tướng Như cho đến lìa nhất thiết chủng trí tướng Như, đối với Vô thượng Giác ngộ có pháp gì thối chuyển chăng?

- Không có pháp gì thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Như đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng? Cho đến pháp tánhpháp trụpháp vịthật tếbất khả tư nghì tánh, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Lìa Như, lìa pháp tánhpháp trụpháp vịthật tế, bất tư nghì tánh, đối với Vô thượng Giác ngộ có thối chuyển chăng?

- Không có thối chuyển.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất! Nếu các pháp rốt ráo chẳng thể đắc thì pháp gì thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ?

- Như lời ngài Tu Bồ Đề nói, trong pháp nhẫn ấy không có Bồ tát thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ”.

Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ, nghĩa là tất cả các pháp chưa hề lìa Vô thượng Giác ngộ, chưa hề lìa khỏi Chân Như. Bởi vì Chân Như chưa bao giờ dịch chuyển khỏi pháp trụpháp vịthật tế của nó để trở thành sanh tử. Thế nên trong Chân Như không có những vấn đề được hay mất, tiến hay thối, tăng hay giảm, dơ hay sạch.

Năm uẩn không thối chuyển trong Chân Như, nên “trong pháp nhẫn ấy không có Bồ tát thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ”.

“Nếu không có pháp gì thối chuyển”, đây là tánh Không tánh Như.

Ngài Xá Lợi Phất nói tiếp:

Nếu không thối chuyển, Phật nói ba hạng người cầu đạo là A La Hán đạoĐộc Giác Phật đạo và Phật đạo, ba hạng ấy là không sai khác. Như lời ngài Tu Bồ Đề nói thì chỉ có một hạng Bồ tát cầu Phật đạo thôi.

Bấy giờ ngài Phú Lâu Na bảo ngài Xá Lợi Phất: Ngài nên hỏi ngài Tu Bồ Đề là có một Bồ tát thừa chăng?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Xá Lợi Phất! Ở trong các pháp Như, ngài muốn có ba thừa chăng?

- Thưa ngài Tu Bồ Đề, không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, trong ba thừa sai biệt ấy có Như để được chăng?

- Thưa không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, Như ấy có một tướng, hai tướng, ba tướng chăng?

- Thưa không.

- Trong Như ấy ngài muốn có nhiều Bồ tát cho đến chỉ có một Bồ tát được chăng?

- Thưa không.

- Thưa ngài Xá Lợi Phất, trong bốn cách trên người ba thừa đều không thể có được, sao ngài lại nghĩ có người cầu Thanh văn thừa, người cầu Độc giác thừa, người cầu Phật thừa?

Thưa ngài Xá Lợi Phấtđại Bồ tát nghe ‘các pháp tướng Như’ này mà tâm chẳng kinh sợ, chẳng thối thất, chẳng hối hận, chẳng nghi ngờ, thì gọi là đại Bồ tát có thể thành tựu Giác ngộ.

Bấy giờ, Phật khen ngợi ngài Tu Bồ ĐềLành thay! Lành thay! Này Tu Bồ Đề! Lời của ông nói đó đều là Phật lực. Nếu đại Bồ tát nghe nói Như ấy không có các pháp riêng khác mà chẳng kinh sợ, chẳng thối thất, chẳng hối hận, chẳng nghi ngờ, phải biết Bồ tát ấy có thể thành tựu Vô thượng Giác ngộ”.

Trong Chân Như, chỉ có Chân Như, không thể có năm uẩn tức là không có chúng sanh và thế giới, không có sự riêng khác của các người ba thừaChân Như là Nhất thừa, từ xưa đến nay, từ cao nhất xuống đến thấp nhất. Chân Như Nhất thừa không có mảy may riêng khác nào trong những cái mà người bình thường gọi là thế giớichúng sanhkhông gianthời gianmê ngộ.

Vô thượng Giác ngộ là Chân Như Nhất thừa này.

Chỉ một cái nhìn sai khác, một ý nghĩ sai khác, một hành động sai khác là người ta đã tự loại mình ra khỏi Chân Như đang bao trùm khắp. Tin hiểu và thực hành như vậy, đó là hành thiền.

 

2/ Các pháp là sự biểu lộ của Chân Như

Kinh nói tiếp:

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thành tựu Giác ngộ nào?

Đức Phật dạy: Thành tựu Phật Vô thượng Giác ngộ.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu muốn thành tựu Vô thượng Giác ngộđại Bồ tát phải tu hành thế nào?

Đức Phật dạy: Phải sanh khởi tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh, cũng dùng tâm bình đẳng nói với họ, không thiên lệch. Với tất cả chúng sanh phải có tâm khiêm hạ, cũng dùng tâm khiêm hạ nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm vô ngại, cũng dùng tâm vô ngại nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm không não hại, cũng dùng tâm không não hại nói với họ. Với tất cả chúng sanh phải có tâm yêu kính như cha mẹ, như anh chị em, như bà con, như bạn bè, cũng dùng tâm yêu kính nói với họ”.

Chân Như biểu lộ qua tất cả các pháp, các pháp môn, và chính nhờ sự biểu lộ thành cái có thể cảm nhận được, có thể suy nghĩ, thấy, nghe này mà người ta có thể tiếp xúc, thấy ra, chứng ngộ Chân NhưChân Như là nền tảng và cũng chính là những biểu lộ đó, nên qua chúng, người ta có thể kinh nghiệm được Chân NhưChân Như là Nền tảng, các pháp thực hành là Con đường, và Chân Như cũng chính là Quả.

 

Đoạn kinh trên nói về thực hành từ bi và với tâm từ bi người ta sống và làm việc, nhờ đó có thể thấy ra được Chân Như. Tại sao phải tu hành từ bi để thấy biết và thể nhập Chân Như? Bởi vì Chân Như là “một Như, không hai, không khác”, và từ bi rốt ráo là cái Một không hai, không khác.

 

Tiếp đó kinh nói đại Bồ tát phải “không sát sanh, không tà kiến, phải tự tu hành tâm từtâm bitâm hỷ, tâm xả, tự tu hành sơ thiền đến phi phi tưởng xứ định, đầy đủ sáu ba la mật, tự mình biết và chứng Tứ Đế, các quả của ba thừa cho đến nhất thiết chủng tríĐại Bồ tát phải tự mình nhập Bồ tát vị, tịnh Phật quốc độthành tựu chúng sanh…”, nghĩa là tu hành tất cả Phật pháp.

Vì như ở trước kinh nói, “Vì đại Bồ tát phải biết tất cả pháp rồi mới được Vô thượng Giác ngộ, pháp này cũng bất khả đắc”.

 

Đức Phật dạy: Muốn thành tựu Vô thượng Giác ngộđại Bồ tát phải tu hành như vậy. Cũng phải học lực phương tiện của Bát nhã ba la mật như vậy. Lúc học như vậy, tu hành như vậy, Bồ tát này sẽ được sắc vô ngại, sẽ được thọ, tưởng, hành, thức vô ngạicho đến sẽ được pháp trụ vô ngại.

Tại sao thế? Vì đại Bồ tát này từ trước cho đến nay chẳng thọ lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến chẳng thọ lấy nhất thiết chủng trí.

Tại sao thế? Vì sắc mà chẳng có người thọ thì chẳng phải sắc. Cho đến nhất thiết chủng trí mà chẳng có người thọ thì chẳng phải nhất thiết chủng trí.

Lúc nói Bồ tát hạnh này, có hai trăm ngàn Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn”.

Bồ tát thì tu tất cả các pháp. Nhưng tất cả các pháp đều hiện hữu trên và lưu xuất từ Nền tảng Chân Như - Tánh Không nên tu tất cả pháp mà chẳng thọ tất cả pháp. Không thọ chính là Trí huệ tánh Không. Thế nên Bồ tát không thọ mà sống và làm việc, do đó Bồ tát giải thoát ngay khi sống và làm công việc Bồ tátBồ tát hạnhBồ tát hạnh là tu tất cả các pháp trong chính Nền tảng Không - Như của tất cả các pháp. Khi ấy tất cả các pháp là vô ngại, nghĩa là tất cả các pháp chính là tự do.

Khi hoàn toàn thấy tất cả các pháp, tất cả sắc thọ tưởng hành thức là Không – Như, là vô ngại, tức là đắc vô sanh pháp nhẫn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 257)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 931)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1176)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant