Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Thuật Ngữ “phương Tiện” Qua Lăng Kính Phật Giáo Đại Thừa

15 Tháng Hai 202317:33(Xem: 1411)
Tìm Hiểu Thuật Ngữ “phương Tiện” Qua Lăng Kính Phật Giáo Đại Thừa
m Hiểu Thuật Ngữ “phương Tiện” Qua Lăng Kính Phật Giáo Đại Thừa

Thích Nữ Thuần Giới

Các Yếu Tố Trợ Giúp Ngũ Căn Bén Nhạy


Tóm tắt: Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh, gieo duyên cứu nhân độ thế. Người con Phật tu tập dù theo pháp môn nào, hệ phái nào cũng cùng một đích đến là giải thoát khỏi khổ đau, luân hồi. Qua quá trình phân tích về phương tiện trong Phật giáo Đại thừa, bài viết cho thấy tư tưởng về Bồ tát có cội nguồn uyên nguyên trong lời dạy của Đức Thế Tôn và đã được tiếp biến, phát triển phù hợp với căn cơ của con ngườithời đại.

DẪN NHẬP

Thông điệp “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” là phương châm hoằng pháp của tu sĩ Phật giáo ngày nay. Trên bước đường học đạo, tu đạo, đạt đạo, đem đạo cứu đời, tất cả đều có sự đồng hành của phương tiện. Về bản chất, phương tiện không phải cứu cánh, không phải mục đích cuối cùng để người hành đạo hướng tới. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận được lợi ích to lớn, thiết thực của phương tiện đem lại, nhưng cũng không nên vì thế mà đắm trước vào phương tiện. Ý nghĩa của phương tiện trong Phật giáo quả thật rất vi diệu, thâm sâu, nhất là khi nhìn từ góc nhìn Phật giáo Bắc truyền (Đại thừa).

ĐỊNH NGHĨA VỀ PHƯƠNG TIỆN

Phương tiện tiếng Phạn, Pali: Upaya, cũng gọi là Thiện quyền, Biến mưu. Là phương pháp khéo léo để tiến triển hướng thượng… Phương tiện ba la mật cũng gọi phương tiện thiện xảo ba la mật, phương tiện thắng trí ba la mật… Phương tiện hóa độ: Tịnh độ do Đức Phật A Di Đà phương tiện thị hiện để tiếp dẫn các hành giả tự lực tu các thiện hạnhniệm Phật cầu vãng sanh. Vì tịnh độ này không phải Báo độ chân thật, nên gọi là phương tiện; còn Giáo chủ của Tịnh độ này là hóa thân Phật chứ không phải Báo thân chân thật của Phật an trụ cho nên gọi là hóa độ… Phương tiện nhị chủng tướng: Hai thứ phương tiện khéo léo mà Bồ Tát thị hiện để cứu độ chúng sanh. (1) Thế gian phương tiện: Các phương tiệnBồ Táttự lợi, lợi tha thị hiện ra; nhưng còn có chổ sở đắc sở chấp; (2) Xuất thế gian phương tiện: Những phương tiện thiện xảo mà các Bồ Tát chỉ vì lợi tha không vì tự lợi thị hiện ra; cũng không còn chổ sở đắc sở chấp [1].

Phương là phương pháp, tiện là tiện dụng. Phương pháp tiện dụng, thích hợp với căn cơ của chúng sanh để giáo hóa, hướng dẫn, làm lợi ích cho chúng sanh. Phương tiện trí: Trí tuệ sử dụng các phương tiện thiện xảo khéo léo trong việc giáo hóa cứu độ chúng sanh. Khả năng sáng tạo nhưng phương tiện thích ứng cho mọi trường hợp và mọi căn trí [2]. Phương tiện còn gọi là Thiện quyền, Biến mưu, Âu hòa, Phương tiện thiện xảo, Phương tiện thánh trí. Là một trong những nội dung chủ yếu cấu thành Bát nhã. Chỉ Bồ tát Đại thừa không thể giống với Bồ tát Tiểu thừa chỉ là cá nhân chứng nhập Niết bàn, mà cần phải áp dụng các phương pháp, phương tiện linh hoạt để làm lợi ích cho người khác, cứu độ hết thảy chúng sanh [3].

Ngoài những định nghĩa trên, phương tiện còn có nhiều loại, nhiều hình thức biến hóa khôn lường như phương tiện Bát nhã, phương tiện hiện Niết bàn, phương tiện tùy duyên hỷ… Ở đây, người viết chỉ trình bày những hình thức phương tiện phổ biến theo các định nghĩa ở trên.

NGUỒN GỐC CỦA PHƯƠNG TIỆN TRONG PHẬT GIÁO

Khi nhắc đến phương tiện, chúng ta thường nghĩ ngay đến Phật giáo Đại thừa, bởi lẽ hạnh nguyện của Bồ tát trong Đại thừatùy duyên sử dụng phương tiện để hóa độ chúng sanh đi trên con đường chân lý của Phật Đà. Nếu nói tinh thần của Bồ tát Đại thừa là tự độ, độ tha thì Phật giáo Nguyên thủy, xa hơn nữa vào thời Đức Phật tại thế đã xuất hiện tinh thần Bồ tát đạo. Đức Phật khẳng định sự kiện Ngài đản sanh cho đến mọi nhân duyên tốt xấu trong cuộc đời Ngài đều là phương tiện. Như khi Bồ tát nhập mẫu thai, mẹ vị Bồ tát giữ giới một cách hồn nhiên, không sát sanh, không trộm cắp… Bồ tát nhập mẫu thai, khiến mẹ không khởi dục tâm ái nhiễm đối với một nam nhân nào… Mẹ Bồ tát hưởng được năm món dục lạc, không bị một bệnh tật gì… Sau khi sanh Bồ tát bảy ngày, mẹ bà mệnh chung và sanh lên cảnh trời Đâu suất… Vị Bồ tát khi sanh ra, Ngài đứng vững, thăng bằng trên hai chân, mặt hướng phía Bắc, bước đi bảy bước, một lọng trắng được che trên. Ngài nhìn khắp cả mọi phương, lớn tiếng như con ngưu vương, thốt ra lời như sau: “Ta là bậc tối thượng ở trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời. Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa” [4].

Trong Kinh Đại Bảo Tích lại một lần nữa trình bày về phương tiện trong cuộc đời của Đức Phật, đến cuối cùng Ngài dạy: “Nay Đức Như Lai nói phương tiện rồi thị hiện phương tiện rồi, các phương tiện này phải giữ chặt cất kín, chẳng nên nói với hạng người hạ liệt, thiện căn kém mỏng. Tại sao? Vì kinh này chẳng phải là chỗ hành của Thanh Văn, Bích Chi Phật, huống là phàm phu hạ liệt mà có thể tin hiểu được…Chỉ có Bồ tát là hay thuyết hay học kinh phương tiện này” [5]. 

Ngoài ra, trong Jataka cũng trình bày phương tiện qua tiền thân của Đức Phật như: vì cứu con cọp khỏi chết đói khi rơi xuống hố, Bồ tát liền nhảy xuống cho cọp ăn. Tuy chỉ giúp nó sống thêm được vài ngày nhưng Bồ Tát vẫn làm, nhằm gửi một tín hiệu, tạo cho nó một duyên để kiếp tương lai nào đó nhờ duyên này gặp được Phật pháp và chỉ khi nào nó gặp được ánh sáng của Phật pháp, mới thoát khỏi kiếp cầm thú. Các vị Bồ tát có khi hy sinh thân mạng để tạo một duyên dù rất nhỏ nhưng đến tương lai sẽ có gặp lại để hóa độ, đó chính là phương tiện lợi tha của Bồ tát thời kỳ này. Đây được xem như nền tảng cơ bản hình thành nên phương tiện nhập thế độ đời của Bồ tát hạnh trong Phật giáo Đại thừa.

Có thể nói, Phật giáo Đại thừa không nằm ngoài giáo lý Phật giáo Nguyên thủy, nếu có chăng chỉ khác nhau về hình thứcngôn ngữ truyền đạt. Tất cả đều dựa trên giáo lý của Đức Phật để hành trì. Các nhà truyền giáo ở mỗi giai đoạn đều có tư tưởng và cách hành đạo riêng, phù hợp với căn cơ con ngườixã hội nơi đó. “Đại thừa với Tiểu thừa đều phải trải qua quá trình ‘gieo trồng hạt giống’ đi dến ‘thành tựu’, cuối cùng đạt được ‘giải thoát’. Do đó, giáo hóa pháp xuất thế không chỉ khiến người khác ở hiện tại đạt được giải thoát tự tại mới là lợi tha. Khiến người khác ‘gieo trồng hạt giống’ đi đến ‘thành tựu’ điều này không phải là lợi tha hay sao” [6]. Người hoằng pháp khéo léo sẽ tùy duyên biến hóa cho phù hợp với thời đại, căn cơ chúng sanh. Ở bất kỳ thời đại nào, các vị đều đã thực hiện đúng với lời dạy của Đức Phật: “Hãy đi, này các Tỳ kheo, hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì lợi ích, vì an lạc cho chư thiên và loài người” [7].

Như vậy, có thể nhận xét: “Bồ tát Đại thừa dựa trên nền tảng Phật giáo Tiểu thừa hình thành và phát triển, khi Phật giáo Đại thừa xuất hiện, Phật giáo Tiểu thừa cũng không vì vậytiêu diệt, cả hai cùng tồn tại” [8]. Trong Jataka, lý tưởng Bồ tát đa hạnh xả thân để tạo duyên cho chúng sanh đến với Phật pháp dù rất nhỏ vẫn làm v.v… đó là minh chứng cho tinh thần độ tha của Phật giáo Nguyên thủy, thế nên “Bồ tát đạo không phải là lý tưởng riêng của Đại thừa” [9]. 

PHƯƠNG TIỆN QUA SỰ HÀNH HOÁ CỦA CHƯ PHẬT VÀ BỒ TÁT

Trong kinh tạng Nikaya đã đề cập rất rõ phương tiện hành hóa độ sanh của chư Phật và chúng đệ tử. Nếu Bồ tát của Phật giáo Đại thừa là những vị đã giác ngộ thì Bồ tát trong Nguyên thủy là những vị đang trên đường tu tập giải thoát, giác ngộ, “trước khi giác ngộ, thành bậc Chánh Đẳng Giác, khi còn là vị Bồ tát” [10]. Với một hình thức này hay hình tướng khác, Bồ tát xuất hiện như một con người bình thường hoặc các loài động vật lớn nhỏ, đều vì lợi ích chúng sanh, tùy nghi sử dụng phương tiện thích hợp. Và một số hình thức phương tiện độ sanh của Đức Phật khi còn tu hạnh Bồ tát trong các kiếp quá khứ như: Thuở xưa, tiền thân của Bồ tát là con khỉ chúa, sống với gần tám ngàn con khỉ khác bên một cái hồ, dưới hồ có một con quỷ chuyên ăn thịt những ai đến gần hồ ấy. Vì lo đàn khỉ chết khát, Bồ tát dùng những cọng lau nối lại với nhau, do nguyện lực rộng lớn của Bồ tát, các cọng lau đều không có mắt, trống rỗng trong suốt kiếp này. Nhờ đó, bầy khỉ được uống nước và không còn sợ hãi con quỷ tại hồ ấy nữa [11].

Ở một tiền kiếp khác, Bồ tát sanh làm con chim cun cút đầu đàn, vây quanh bởi hàng ngàn con chim cun cút khác, có người thợ săn luôn tìm cách bắt chúng để bán. Chim cút đầu đàn nghĩ cách cứu đồng loại, liền bày kế: khi bị mắc lưới phải nhấc bổng lưới lên và thả xuống trên một bụi gai, rồi trốn thoát theo ngã dưới. Nhờ đó bầy chim được cứu thoát [12].

Trong cuộc đời hoằng hóa lợi sanh, Đức Phật đều dùng các phương tiện thiện xảo, hóa hiện muôn hình vạn trạng để tùy nghi giáo hóa và các chúng đệ tử của Ngài cũng đang tiếp nối con đường ấy theo nhiều phương tiện khác nhau. Ngài Đại Ca Diếp vì lòng thương tưởng đến người nghèo khổ, thiếu phước nên phát nguyện chỉ đi khất thực nơi xóm nghèo nhằm gieo duyên lành đến với họ, dù rất nhỏ. 

“Từ trú xứ bước xuống,

Ta vào thành khất thực,

Ta cẩn thận đến gần,

Một người cùi đang ăn.

Với bàn tay lỡ loét, 

Nó bỏ vào một muỗng, 

Khi bỏ vào muỗng ấy, 

Ngón tay rời rơi vào.

Dựa vào bức tường thành,

Ta thọ miếng ăn ấy,

Khi ăn và ăn xong,

Tâm không cảm ghê tởm” [13]. 

Hình ảnh một tỳ kheo già khoác trên mình tấm y sờn cũ kỹ, ôm bát khất thực đến những thôn nghèo, xóm nhỏ tạo cảm giác gần gũi, thân thương. Phải có lòng đại bi rộng lớn, đủ định lực như ngài Đạ Ca Diếp mới có thể thực hành được, người xuất gia bình thường khó có thể làm được. Hay Angulimala vì thương xót người phụ nữa sắp sinh, đang đối mặt với sanh tử, vì người phụ nữ đó ông nói rằng: “Này Bà chị, vì rằng tôi từ khi được Thánh sanh đến nay chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn và sanh đẻ được an toàn!” [14]. Nhờ công đức ấy, người phụ nữ sanh con an toàn. Bằng mọi phương pháp có thể đem đến an lạc, hạnh phúc cho chúng sanh, Bồ tát đều thực hiện không từ nan. 

Chúng ta cũng không thể bỏ qua phương tiện trong Đại thừa, nổi bậc nhất hơn hết là các lời dạy trong Kinh Pháp Hoa. Tuy Kinh Pháp Hoa được kết tập muộn, nhưng được gọi là viên giáo, nghĩa là giáo lý tròn đầy. Nội dung kinh đề cập đến không ít phương tiện thiện xảo của Bồ tát, phẩm “Dược Thảo Dụ” diễn tả trận mưa xuống, tùy theo mỗi giống cây lớn nhỏ mà hấp thụ nước khác nhau. Trận mưa ví như pháp của Đức Phật, ai thực hành theo pháp đều có lợi ích, dù bất cứ ở đâu, thực hành lớn được lợi ích lớn, nhỏ được nhỏ. Nghĩa là lời dạy của Đức Phật tùy theo căn cơ, chủng tánh của chúng sanh để hóa độ. Trước đây, phương tiện này đã được Ngài sử dụng trong Kinh Giáo giới La hầu laĐại Kinh Giáo giới La hầu la. Khi dạy một đứa trẻ chưa hiểu chuyện Ngài khuyên không nên nói láo với mọi hình thức. Qua một thời gian nhất định Ngài dạy Tôn giả Rahula thực tập hơi thở, quán năm giới: đất, nước, gió, lửa và hư khôngvô ngã. Cũng là giáo giới La hầu la, nhưng ở mỗi giai đoạn nhận thức, Đức Phật chỉ dạy phương thức tu tập, hành trì khác nhau.

Hay trong “Phẩm Thí Dụ” kể câu chuyện ông trưởng giả vì muốn cứu các con thơ dại ra khỏi nhà lửa đang bốc cháy, dùng phương tiện hứa cho ba thứ xe (xe hươu, xe trâu, xe dê) nhưng cuối cùng chỉ cho 1 xe trâu trắng lớn. Ba thứ xe là phương tiện dẫn dụ thoát khỏi nguy hiểm, bảo toàn sinh mạng cho chúng. Cũng như Đức Phậtcăn cơ của chúng sanh chỉ ra Thanh Văn thừaDuyên Giác thừa, nhưng đó chỉ là phương tiện để đưa đến Phật thừa. Do đó, “hai thừa đầu tiên chỉ là hai thừa phương tiện, mà mục đích chưa phải là cứu cánh đích thực tối thượng” [15] chỉ Phật thừa có đầy đủ công năng chuyên chở tất cả chúng sanh, hướng đến cứu cánh, giải thoát. Trí tuệ được ví như viên châu trong búi tóc, trong chéo áo cũng phải bỏ đi, thế mới thấy phạm vi bao trùm của phương tiện quá lớn, suy cho cùng toàn bộ giáo pháp đều gói trong câu nói của Đức Phật: “Này các thầy tỳ kheo, chánh pháp còn bỏ đi huống nữa là phi pháp” [16], không nên cố chấp vào điều gì vì tất cả chỉ là phương tiện hướng đến mục đích tối hậu an lạc, giải thoát

BÀI HỌC QUÝ GIÁ

Tư tưởng Đại thừa trong Phật giáo nêu cao tinh thần Bồ tát đạo, Bồ tát muốn độ sanh không thể ra ngoài phương, phương tiện chính là cầu nối thiết yếu đưa Bồ tát đến gần với chúng sanh. Giống như các vị Bồ tát đến đi mọi ngõ ngách để độ sanh, như sen trong bùn không tanh mùi bùn. Đơn cử như Duy Ma Cật xem nơi đâu cũng là đạo tràng “vô phi thanh tịnh đạo tràng”, Bồ tát vào đó không bị mê hoặc bởi những cấu bẩn của thế gian, vào đó để tùy duyên hóa độ những người đang mê muội, đắm chìm trong sanh tử. Đối với vị tỳ kheo đệ tử Phật khi tu hạnh Bồ tát phải biết tùy phương tiện hành đạo, không phải đâu cũng đến đi được. Bởi lẽ, vị tỳ kheo xem trọng giới tướng, thầy tỳ kheo mặc dù chưa chứng thánh quả nhưng hình thức đồng với Đức Phật. Tỳ kheo là người thay Đức Thế Tôn hoằng pháp sau khi Ngài nhập diệt, lúc nào cũng phải trang nghiêm, đĩnh đạc mới xứng đáng là người con Phật. Bồ Tát khi độ sanh nếu xuất hiện theo hình tướng cư sĩ vẫn đứng sau các thầy tỳ kheo và không được dự vào hàng Tam bảo. Tuy nhiên, Bồ tát khi độ sanh không nhất thiết phải có thần thông hay thân tướng trang nghiêm như thầy tỳ kheo, với bất cứ hình tướng, sắc thân nào, Bồ tát cũng có thể thực hành hạnh nguyện lợi sanh. Thế nên, chúng ta cần phải tinh tấn, nỗ lực tu hành, tịnh hóa thân tâm, để làm tròn xứ mệnh thiêng liêng của người đệ tử Phật: 

“Hãy học các dòng nước,

Từ khe núi vực sâu.

Nước khe núi chảy ồn,

Biển lớn động im lặng”. [17]

KẾT LUẬN

Từ khi Đức Phật còn tại thế cho đến thời đại ngày nay, người thực hành phương tiện ngoài việc tự lợi còn đem lại lợi lạc, hạnh phúc cho nhân loại. Bồ tát vì lợi ích chúng sanh không tiếc thân mạng, tài vật, sẵn sàng hy sinh bản thân, trong cõi Diêm phù đề không có nơi nào dù nhỏ bằng hạt cải mà không có sự hy sinh máu thịt, xương tủy của Bồ tát. Bồ tát dễ dàng lưu chuyển trong sanh tử vì các Ngài điều phục được phiền não, dùng Tứ nhiếp pháp để nhiếp hóa chúng sanh, không lìa thế gian vẫn thành tựu được đạo quả, đó là việc khó trong các việc khó. Chúng ta cần thấy rõ bản thân đang ở đâu, không thể ví ta và Bồ tát đồng như nhau, chỉ làm những việc trong khả năng, không nên cố chấp để tam độc tham-sân-si trỗi dậy lúc nào không hay biết. Hàng hữu học như chúng ta đang từng bước sửa đổi phàm tính, hoàn thiện nhân cách của bậc thánh, tập tành đi trên con đường Đức Phật chỉ bày, cần phải chánh niệm, tỉnh giác, phòng ngừa ma tánh sanh khởi. Có như vậy mới xứng đáng là người con của Phật.

 

Chú thích:

[1] Thích Quảng Độ (dịch, 2014), Phật Quang đại từ điển 4, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, tr 4404-4407.

[2] Tâm Tuệ Hỷ (2010), Danh từ Phật học thực dụng, Nxb. Tôn giáo, tr.368-369.

[3] Lao Tử – Thịnh Lê (chủ biên, 2001), Từ điển Nho Phật đạo, Nxb. Văn học, tr 305.

[4] Thích Minh Châu (2013), Trường Bộ Kinh, kinh Đại bổn, Nxb. Tôn giáo, tr.235.

[5] Thích Trí Tịnh (dịch, 1988), Kinh Đại Bửu Tích tập 7, Trung ương GHPGVN xuất bản, tr.477-478.

[6] Ấn Thuận, Quán Như-Ý Thiện (dịch, 2018), Ba điều căn bản cho việc học Phật, Nxb. Hồng Đức, tr.169.

[7] Thích Minh Châu (dịch, 2013), Trường Bộ Kinh, Kinh Đại bổn, Nxb. Tôn giáo, tr.259.

[8] Vu Lăng Ba, Thích Hạnh Bình và Phương Anh (dịch, 2019), Đức Phật Thích Ca trong Phật giáo Nguyên thủy, Nxb. Hồng Đức, tr.502.

[9] Damien Keown, Thái An (dịch, 2020), Dân luận về Phật giáo, Nxb. Hồng Đức, tr.102.

[10] Thích Minh Châu (dịch, 2012), Trung Bộ Kinh, Kinh Bồ Đề vương tử, NXB Tôn giáo, tr.121.

[11] Thích Minh Châu (dịch, 2015), Tiểu Bộ III, phẩm Giới, Chuyện hồ Nalakapàna (Tiền thân Nalakapàna), Nxb. Tôn giáo, tr.99-101.

[12] Thích Minh Châu (dịch, 2015), Tiểu Bộ III, phẩm Kulāvaka, Chuyện sống hòa hợp (Tiền thân Sammodamàna), Nxb. Tôn giáo, tr.145-147

[13] Thích Minh Châu (dịch, 2001), Trưởng lão Tăng kệ, chương XVIII, phẩm 40 kệ, Nxb. Tôn giáo, tr.469.

[14] Thích Minh Châu (dịch, 2012), Trung Bộ Kinh, Kinh Angulimāla, Nxb. Tôn giáo, tr.130.

[15] Lê Mạnh Thát-Tuệ Sỹ (chủ biên Việt dịch, 2020), Dẫn vào tuệ giác Phật, Nxb. Hồng Đức, tr.271.

[16] Thích Minh Châu (dịch, 2012), Trung Bộ Kinh, Kinh Ví dụ con rắn, Nxb. Tôn giáo, tr.179.

[17] Thích Minh Châu (2015), Tiểu Bộ I, chương 3, Đại phẩm, (XI) kinh Nālaka, Nxb. Tôn giáo, tr.472.

 

Tài liệu tham khảo:

1. HT Thích Minh Châu (dịch, 2013), Trường Bộ Kinh, Nxb. Tôn giáo.

2. HT Thích Minh Châu (dịch, 2012), Trung Bộ Kinh, Nxb. Tôn giáo.

3. HT Thích Minh Châu (dịch, 2015), Tiểu Bộ III, Nxb. Tôn giáo.

4. HT Thích Minh Châu (dịch, 2001), Trưỡng lão Tăng kệ, Nxb. Tôn giáo

5. HT Thích Minh Châu (dịch, 2015), Đại thừa và sự liên hệ với tiểu thừa, Nxb. Tôn giáo.

6. TK. Thích Trí Tịnh (dịch, 1988), Kinh Đại Bửu Tích tập 7, Trung ương GHPGVN xuất bản.

7. HT Ấn Thuận, Thích Quán Như – Thích Nữ Ý Thiện (dịch, 2018), Ba điều căn bản cho việc học Phật, Nxb. Hồng Đức.

8. Lê Mạnh Thát – Tuệ Sỹ (chủ biên Việt dịch, 2020), Dẫn vào tuệ giác Phật, Nxb. Hồng Đức.

9. Damien Keown, Thái An (dịch, 2020), Dân luận về Phật giáo, Nxb. Hồng Đức.

10. Lao Tử-Thịnh Lê (chủ biên, 2001), Từ điển Nho Phật đạo, Nxb. Văn học.

11. Thích Quảng Độ (dịch, 2014), Phật Quang đại từ điển 4, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản.

12. Tâm Tuệ Hỷ (2010), Danh từ Phật học thực dụng, Nxb. Tôn giáo.

13. Vu Lăng Ba, Thích Hạnh Bình và Phương Anh (dịch, 2019), Đức Phật Thích Ca trong Phật giáo Nguyên thủy, Nxb. Hồng Đức.
(Trích từ tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 405)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 561)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 744)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1316)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1347)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant