Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

Monday, February 27, 202317:23(View: 2219)
Phật Giáo Và Vấn Đề Giai Cấp Xã Hội
Phật GiáoVấn Đề Giai Cấp Xã Hội

Thích Trung Định

Nghiệp & Dị Thục


Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.

Lịch sử đã cho thấy chiến tranh, xung đột, bạo lực đều có nguyên nhân từ sự phân biệt, kỳ thị giai cấp. Trong thời đại Đức Phật, sự phân biệt, kỳ thị giai cấp đã ăn sâu trong tư tưởng người Ấn và trở thành một trật tự xã hội. Lãnh đạo xã hội dựa trên giai cấp và được kế thừa theo huyết thống không thay đổi từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Xã hội Ấn Độ cổ đại được chia thành bốn giai cấp. Đầu tiên là giai cấp Bà-la-môn (Brahmani) chưởng quản về các tư tế, các nhà trí thức, chú giải kinh điển Vedas, chuyên trách giáo dục. Giai cấp thứ hai là Sát-đế-lợi (Kshatriya) gồm các nhà lãnh đạo, tướng lãnh, các chiến sĩ. Giai cấp thứ ba là Phệ-xá (Vaishya) chưởng quản về các ngành nghề, thương gia, điền chủ, các nghề thủ công. Giai cấp thứ tư là Thủ-đà-la (Shudra) gồm các người làm việc nặng nhọc như nhân công, thợ thuyền, đầy tớ.

Dưới đáy xã hội là các người “ngoài giai cấp” thường được gọi là các người “paria” hay “không thể đụng tới”, hạng tiện dân, nô lệ Chiên-đà-la (Caṇḍāla) và những người này đã vi phạm luật lệ và mất các quyền xã hộitôn giáo. Họ chuyên làm vệ sinh, những việc dơ bẩn nhất và chôn xác người chết. Ngày nay những người “paria” này tự xem là “dalit”, những người bị áp bức.

Hệ thống phân chia giai cấp trên đây dựa vào kinh Rig Veda. Theo đó, giai cấp Bà-la-môn cao nhất, bắt nguồn từ đầu của thần tạo dựng Brahma. Giai cấp Sát-đế-lợi và Phệ-xá bắt nguồn từ hai cánh tay và hai chân của thần. Giai cấp Thủ-đà-la thấp nhất, bắt nguồn từ hai chân của thần Brahma.

Theo Vinayak Jadav, chuyên gia nghiên cứu về các vấn đề giai cấp trong xã hội Ấn: “Các biểu hiện bên ngoài của hệ thống phân chia giai cấp tại Ấn Độ ngày nay không còn hiển nhiên như trước. Người ta không còn tuân giữ các luật lệ cứng nhắc của việc kỳ thị. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại một cách tinh vi trong các thói quen kỳ thị giữa các giai tầng xã hội.

Chẳng hạn, lãnh đạo chính quyền dành ưu tiên cho giai cấp cao, trong khi những giai cấp thấp ít có cơ hội tiến thân. Trong học vấn cũng vậy, có người giai cấp thấp đỗ đạt cao nhưng khó ra lãnh đạo, ngoại trừ những nhân vật xuất chúng. Không có ai trong giai cấp cao lập gia đình với một người thuộc giai cấp thấp hơn, vì họ sợ những hệ lụy liên quan đến bản thân.”1

Theo một số nhà lãnh đạo cấp tiến thì không có xã hội nào có thể dựa trên một ý thức hệ thù hận và kỳ thị mà bình yên được. Như Mahatma Gandhi đã nói: “Các giai cấp xã hội là một vết nhơ nhục nhã trên trán của Ấn Độ”.2

Trong bốn giai cấp thì Thủ-đà-la có vị trí thấp nhất. Tuy nhiên, tình trạng của họ vẫn còn tốt hơn những người “hạ tiện”, vì họ còn được coi là con người, trong khi tình trạng của những người “ngoài giai cấp” thấp hơn cả con người, thậm chí như súc vật. Và sự phân chia giai cấp này mang tính cha truyền con nối, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau, suốt đời suốt kiếp không thay đổi được.

Lập luận chính của Đức Phật chống lại sự phân chia giai cấp này, đó là không có con người nào có thể cao thượng hay thấp hèn trong xã hội chỉ vì lý do mình sinh ra. Địa vị xã hội của con người phụ thuộc vào chính hành vi của họ. Điều này có nghĩa rằng, dựa theo thái độhành vi (nghiệp) của một người sẽ làm cho họ cao thượng hay thấp hèn, chứ không phải vì giai cấp.

Đức Phật luôn nhấn mạnh vai trò của cá nhân con ngườitrung tâm của cải cách xã hội. Xã hội là sự kết hợp của các cá nhân; do đó, cải cách cá nhân có nghĩa là cải cách xã hội. Mọi người đều có khả năng thành Phật. Như những con sông về với biển đều phải bỏ tuổi, bỏ tên. Cũng vậy, trong Giáo hội của Như Laibốn giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

Khi họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, họ cũng từ bỏ giai cấp, bỏ họ, bỏ tên, bỏ danh vọng, bỏ địa vị, bỏ sự nghiệp, bỏ quê hương, chủng tộc để chỉ còn là những Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, là những Sa-môn Thích tử! Đức Phật chỉ dựa vào tiêu chí về tu hành, đức hạnhtrí tuệ, chứ không phụ thuộc vào dòng giống nơi mình sinh ra. Mọi người đều bình đẳng vì mỗi người đều có thể hoàn thành những mục tiêu cao cả.

Đức Phật đã bác bỏ quan điểm của Bà-la-môn, rằng “Vị trí xã hội của con người phụ thuộc vào sự ra đời của họ”, Ngài dạy:

“Không phải do sinh ra, người ta trở thành thấp/ Không phải do sinh ra, người ta trở thành cao quý/ Nhưng bằng hành động, một người trở thành thấp/ Và bằng hành động, người ta trở thành cao quý”.

Đức Phật chỉ rõ, hành động (nghiệp) của người đó mới quan trọng, không phải là hoàn cảnh ra đời của họ. Một điểm quan trọng khác cần làm rõ là liệu một người sinh ra trong một giai cấp thấp có phải vì nghiệp xấu trước đây của họ? Khả năng này được thừa nhận trong Phật giáo, như được hiểu trong học thuyết về nghiệp.

Đức Phật không bao giờ chấp nhận sự cao quý hay thấp kém dựa trên nơi chốn hay đẳng cấp mà họ sinh ra. Học thuyết luân hồi tái sinh của Phật giáo giải thích cho chúng ta hiểu, kết quả mình có trong hiện tại một phần do nghiệp quá khứ. Tuy nhiên, nghiệp theo Phật giáo không phải định nghiệp mà là bất định nghiệp. Do đó, con người có thể chuyển đổi hoàn cảnh của mình do sự nỗ lực của cá nhân có thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại.

Đạo đức và sự phát triển tâm linh không phải là một đặc quyền của cá nhân, giai cấp. Đức Phật dạy rằng, tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp đều bình đẳng trước pháp luật về đạo đức. Người có thân phận thấp kém sau khi xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật trở thành thánh thiện đều được mọi người tôn kính. Quả vị giác ngộ dành cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tánh. Nếu ai nỗ lực đúng cách thì đạt được quả vị cao quý ấy.

Trong rất nhiều bản kinh, Đức Phật đã lên tiếng chống lại hệ thống đẳng cấp. Kinh Ambattha (thuộc Trường bộ), kinh Assalayana (thuộc Trung bộ)…, Đức Phật đều tranh luận mạnh mẽ, thẳng thừng phê phán, quyết liệt chống lại quan điểm bảo thủ giai cấp của Bà-la-môn.

Bài kinh Assalāyana (Trung bộ), cho thấy sự tranh luận quyết liệt này. Thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn: Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau: “Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen; chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”3.

Đức Phật lần lượt đưa ra những luận lý của mình để giải thích, chứng minh rằng lời tuyên bố đó là vô căn cứ. Ngài nói rằng, sự thanh tịnh là kết quả của việc thực hành giới hạnh, không phải do sinh ra mà có. Đức Phật thậm chí tước bỏ tính di truyền của danh từ ‘Bà-la-môn’ và đem danh từ đó trở về ý nghĩa ban đầu của một người thánh thiện, xác định một người Bà-la-môn thực sự chính là vị A-la-hán. “Không biết chỗ sở thủ/ Thiên, Nhân, Càn-thát-bà/ Lậu hoặc được đoạn trừ/ Bậc Ứng cúng, La-hán/ Kẻ ấy Ta mới gọi/ Chánh danh Bà-la-môn”4

Ngay từ ban đầu, Phật giáo không chấp nhận hệ thống đẳng cấp, và cũng không có sự thay đổi quan điểm hay thỏa hiệp với vấn đề này trong suốt quá trình phát triển về sau. Theo Phật giáo, giai cấp chỉ là một vấn đề quy ước của con người. Đức Phật dạy: “Ai sống theo thiện pháp thì đó là người đáng kính, chứ không phải vì người đó thuộc dòng dõi, giai cấp nào cả”.

Một người xuất thân từ dòng dõi thấp kém vào trong giáo pháp của Như Lai, vẫn có thể chứng được quả vị A-la-hán. “Không có đẳng cấp khi nước mắt cùng mặn, khi máu cùng đỏ”. Hãy đánh giá một người qua hạnh nghiệp của người đó, chứ đừng đánh giá người đó bởi dòng dõi họ sinh ra. Những ai đã xuất gia trong giáo pháp của Như Lai thì phải cạo bỏ râu tóc như là sự từ bỏ đẳng cấp riêng để tìm về cái chung, cũng như nước của mọi con sông đều trở thành vị mặn khi cùng đổ ra biển lớn… Hãy nên lấy nỗi khổ đau của người làm nỗi đau của chính mình mới vỡ lẽ nhiều bài học quý giá trong cuộc sống.

Như vậy, một người khi tham gia vào cộng đồng Phật giáo thì tất cả những gì liên quan đến đẳng cấp đều bị loại trừ. Tất cả đều bình đẳng trong giáo pháp, và tất cả đều có khả năng đạt được giác ngộ, bất kể màu da hay nguồn gốc gia đình của họ là gì.

Tóm lại, sự phân biệt giai cấp trong xã hội loài ngườithể không bao giờ chấm dứt, nhưng tiếng nói chân chính của Phật giáo bảo vệ những người thấp yếu cũng như cho tất cả mọi người là rất đáng trân trọng. Tư tưởng Phật giáo góp phần xóa bỏ kỳ thị, xua tan thù hận, hàn gắn tang thương, thay đổi nhận thức và có thái độ sống tích cực, mang lại sự an lạc, hạnh phúc cho nhân loại.

-------------------------

(1) https://minhtrietviet.net/te-nan-phan-chia-giai-cap-trong-xa-hoi-an-do/

(2)Tâm thức phân chia giai cấp tại Ấn Độ” http://vi.radiovaticana.va/storico/2010/11/16/.

(3) Đại tạng kinh Việt Nam Nam truyền, Kinh Trung bộ, tập 2, NXB Tôn Giáo, 2016, p. 185.

(4) Sđd, p.248.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 93)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 133)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 125)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 213)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 169)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 268)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 217)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 283)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 553)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 468)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 431)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 444)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 392)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 354)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 448)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 662)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 480)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 465)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 623)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 719)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 556)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 634)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 808)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 794)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 840)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 694)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1024)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 842)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 803)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 781)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 893)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 799)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1233)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 836)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 859)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 956)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1130)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 962)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 857)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 932)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 899)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 997)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1143)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1228)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 898)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 1000)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1099)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1362)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1064)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1154)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1368)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1220)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1199)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1378)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1521)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1847)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1661)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1564)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM