Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Sốlượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên. Thế giới đó bị hạn chế về không gian, thời gian và số lượng. Con người sống trong thế giới đó đã quá quen thuộc với các thói quen sai lầm về nhận thức, tưởng rằng đó là lẽ phải đời thường, tưởng rằng đó là khách quan nằm ngoài ý thức.
Mặc dầu nhận thức này là sai lầm nhưng rất hữu dụng, tuy nhiên nó có thể đưa đến hậu quả tai hại, đó là khổ, sinh tử luân hồi. Điều đó giống như cơ học Newton rất hữu dụng trong đời thường nhưng không hoàn toàn đúng. Một điều rất nghịch lý nhưng lại có thật, đó là chính vô minh và lầm lẫn là công dụng của thế giới đời thường. Nếu chúng ta không có vô minh, không có lầm lẫn thì không thể thấy được nguyên tử là vật, không thể cảm nhận được thế giới, chỉ thấy không mà thôi.
Cũng giống như nếu mắt ta không bị ảo tưởng lừa gạt, thì nhìn vào tivi chỉ thấy chấm chấm mà không thấy hình ảnh, càng không thể thấy hình ảnh chuyển động. Ảo tưởng lầm lẫn là tối cần thiết trong đời thường. Hay nói cách khác ảo tưởng lầm lẫn là nguyên lý của thế gian. Đó là lý do tại sao vô minh là mắt xích đầu tiên của chuổi thập nhị nhân duyên.
Không có số lượng về khoảng cách không gian
Chẳng hạn khoảng cách không gian từ Sài Gòn ra Hà Nội đi theo đường bộ là 1719 km, còn theo đường bay của hãng hàng không là 1274 km, khoảng cách theo đường thẳng là 1146 km. Nếu đi bộ theo đường mòn hoặc đi theo đường biển thì có nhiều con số khác nữa. Nhưng con số 1146 km dường như là khoảng cách khách quan theo đường thẳng, dù muốn hay không, chúng ta cũng phải vượt qua khoảng cách đó (bằng cách bay thẳng) mới đi được từ nơi này đến nơi kia.
Tuy nhiên khoảng cách bằng đất đá đó thể rút ngắn lại khi quả đất bị một lực nào đó nén nhỏ lại. Bởi vì nguyên tử tạo thành vật chất là trống rỗng, nên nếu có lực gì đủ mạnh thì có thể nén cho nó nhỏ lại. Ví dụ mặt trời của chúng ta, hiện nay có đường kính 1.400.000 km, khi cháy hết nhiên liệu thì bị co rút lại, chỉ còn 6 km, khi đó nó sẽ trở thành một lỗ đen trong vũ trụ. Trái đất có đường kính trung bình 12.742 km thì khi bị biến thành lỗ đen, nó chỉ còn 1,8 cm đường kính. Điều đó có nghĩa là khoảng cách không gian bằng đất đá cũng không cố định. Vị trí của một quốc gia có khi cũng thay đổi. Sau trận động đất ngày 11-03-2011, đảo Honshu của Nhật Bản đã bị dời đi 2,4 mét.
Vậy còn khoảng cách không gian bằng chân không có thật hay không ? Tiến hành thí nghiệm hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) năm 2008, nhà vật lý Nicolas Gisin và các đồng nghiệp của ông tại trường đại học Geneva, Thuỵ Sĩ, đã chỉ ra rằng, nếu có sự truyền tín hiệu từ photon này qua photon kia, thì tốc độ truyền của các trạng thái lượng tử giữa các photon vướng víu, liên kết với nhau ở hai nơi cách xa nhau 18 km, là khoảng chừng 10 triệu lần tốc độ ánh sáng (Nature, vol 454, p 861). Điều đó quá phi lý, bởi vì theo Einstein, không có tốc độ nào vượt quá tốc độ ánh sáng (khoảng 300.000 km/giây). Như vậy chỉ có thể hiểu theo như Kinh Phật nói, khoảng cách không gian chỉ là ảo tưởng trong tâm thức mà thôi, tức là không có thật.
Vì vậy kinh điển Phật giáo thường nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” Khoảng cách không gian chỉ là tâm thức, không có thật, bất cứ khoảng cách là bao nhiêu tỉ quang niên, chỉ một niệm là đến. Kể cả đi từ vũ trụ này qua vũ trụ khác, chỉ một niệm là đến. Người bình thường chúng ta làm không được, vì tâm trí óc não của chúng ta bị trói bởi các thói quen (tập khí) sai lầm. Nếu giải thoát được, thì chỉ cần một niệm, chúng ta có thể đi tới cõi Tây phương cực lạc của Phật A Di Đà, cách xa cõi ta bà này mười vạn ức cõi Phật [Di Đà Kinh 弥陀经 nói 过十万亿佛土,有世界名曰极乐] con số chỉ nói lên là vô lượng chứ không còn ý nghĩa số đếm.
Như vậy, trong hiện tượng rối lượng tử cũng như trong kinh Phật, khoảng cách không gian là không có ý nghĩa, số lượng là không có ý nghĩa. Nhiều photon có thể xuất hiện đồng thời ở nhiều vị trí khác nhau, thật ra không phải nhiều (bởi vì chúng đều giống nhau như chỉ có một mà thôi) nhưng cũng không phải là một (vì rõ ràng là các khoa học gia thấy chúng có mặt ở nhiều nơi khác nhau), đó là ý nghĩa bất nhị trong Phật giáo.
Tính chất không có thật của khoảng cách không gian, ngày nay được ứng dụng rất hiệu quả trong tin học. Hiện nay chúng ta có thể gặp mặt, nói chuyện thân mật, nhìn thấy lẫn nhau, với bạn bè hay thân nhân, hoàn toàn không chút tuỳ thuộc hai người đang ở đâu trên thế giới, chỉ cần có đủ nhân duyên. Nhân duyên đó là phương tiện cần thiết, cũng không có gì quá phức tạp, chỉ cần một chiếc iphone, hoặc smartphone tầm trung trở lên (giá khoảng 5 triệu) có trang bị wifi hoặc 3G, hoặc một laptop hay netbook, có cài thêm Skype. Chúng ta có thể nói chuyện thoải mái với bạn bè ở bên kia bờ Thái Bình dương không sợ tốn tiền, bởi vì đàm thoại qua mạng internet, nếu truy cập internet bằng wifi thì hoàn toàn yên tâm, miễn phí hoàn toàn, gắn thêm tai nghe để cho thật thoải mái, không cần phải cầm điện thoại trên tay, tiếng nói rất rõ và ổn định. Chúng ta có thể nói chuyện lúc đang ngồi trong quán cà phê, lúc đang ngồi chơi trong công viên (trong công viên có lẽ phải truy cập internet bằng 3G) hoặc lúc đang đi mua sắm ở siêu thị hay đang ngồi ở nhà, đều có thể gặp nhau đàm đạo. Khoảng cách không gian xa xôi có thể nói đã bị triệt tiêu hoàn toàn.
Không có số lượng về thời gian
Pháp sư Huệ Trì là em trai của Huệ Viễn (Tổ của Tịnh Độ tông) đang ở Lư Sơn, tỉnh Giang Tây, nghe nói ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên đất đai màu mỡ, nhân dân giàu có, muốn đến đó truyền pháp và xem phong cảnh núi Nga Mi. Năm Long An thứ ba đời Đông Tấn (công nguyên 399 CN), ông từ biệt Huệ Viễn đi Tứ Xuyên. Huệ Viễn khuyên em ở lại hết lời mà không được, bèn than rằng “Người đời đều thích đoàn tụ, riêng mình em thích phân ly, vì sao vậy ?” Ông đáp : “Nếu là người vướng mắc ở tình cảm, thích đoàn tụ thì không nên xuất gia. Hiện tại chúng ta đã cát ái xả dục mà cầu đạo thì nên kỳ vọng gặp nhau ở Tây phương cực lạc” Thế rồi anh em chia tay. Huệ Trì lên đường đi Tứ Xuyên một mình, từ đó không ai còn biết tung tích của ông. Kể từ lúc ông lên đường đi Tứ Xuyên vào năm 399 CN đến lúc người ta phát hiện ra ông trong bọng cây là năm 1113 CN, tức đã trải qua 714 năm. Câu chuyện như sau :
Bộ Sách Gia Thái Phổ Đăng Lục do Chính Thọ (Vân Môn tông) viết vào đời Nam Tống, quyển 22 có ghi lại một câu chuyện sau : Năm Chính Hòa thứ ba đời Tống Huy Tông (công nguyên 1113), tại Gia Châu Tứ Xuyên (nay là huyện Lạc Sơn nơi có tượng Phật điêu khắc vào vách núi đá cao nhất thế giới) quan địa phương có biểu tâu lên triều đình : Có cây cổ thụ bị gió thổi gãy, bên trong có một lão tăng đang nhập định, râu tóc che phủ thân thể, móng tay dài bao quanh người. Hoàng đế giáng chỉ dùng cáng khiêng lão tăng đó đưa về kinh đô (thời đó là Biện Kinh, kinh đô của nhà Bắc Tống, nay là thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam). Do vị sư người Tây Thiên (Ấn Độ) là Tổng Trì Tam Tạng dùng chiếc khánh đồng đánh lên để làm cho lão tăng xuất định, mới biết đó là em trai của pháp sư Huệ Viễn ở Lư Sơn, tên là Huệ Trì, nhân đi du lãm núi Nga Mi, ngồi nhập định trong bọng cây. Hoàng đế ra lệnh cho họa sĩ vẽ hình của lão tăng, và tự mình làm ba bài kệ.
Huệ Trì nhập định hơn 700 năm, tuổi thọ có thể so sánh với Bành Tổ sống 800 tuổi trong sách xưa. Tuy nhiên đó chưa phải là kỷ lục nhập định lâu nhất của người trên địa cầu. Thiền sử ghi :
Trong thời đại của Đức Phật, Ma Ha Ca Diếp, Quân Đồ Bát Thán, Tân Đầu Lô, La Hầu La, đều nhận lãnh lời Phật phó thác, là không nhập Niết Bàn. “Tăng Nhất A Hàm Kinh” quyển 44, “Di Lặc Hạ Sinh Kinh” quyển 1, nói : “Đại Ca Diếp cũng không về cõi Niết Bàn” mà các quyển “Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện”, “Đại Đường Tây Vực Ký” đều ghi Đại Ca Diếp nhập định tại núi Kê Túc (Kukkuṭapādagiri hay còn gọi là Tôn túc sơn Gradhakuta, nay thuộc bang Bihar, Ấn Độ, gần thành Vương Xá –Rājagaha- của nước Ma Kiệt Đà- Magadha- xưa) phát nguyện giữ thân cho đến khi Di Lặc thành Phật, khiến thân không bị hư hoại, vì vậy cho đến ngày nay, ông vẫn còn nhập định tại núi Kê Túc, là người bảo trì được thân thể lâu kỷ lục trong cõi ta bà thế giới này.
Maha Ca Diếp hay Đại Ca Diếp (Mahakasyapa) là Sơ Tổ của Thiền Tông Ấn Độ, ông là đại đệ tử của Phật Thích Ca, được Phật đích thân truyền pháp Tổ Sư Thiền qua sự kiện “Niêm hoa vi tiếu”, Phật đưa cánh hoa, Maha Ca Diếp mỉm cười. Thế là đủ, vì là tâm truyền tâm, nên tất cả pháp sâu xa nhất đều được truyền. Đại Ca Diếp tuy là đệ tử của Phật nhưng ông lớn tuổi hơn Đức Phật lịch sử. Sau khi Phật nhập diệt vào năm 543 Trước CN, (năm đó được lấy làm năm đầu của Phật lịch, đến năm nay 2012 dương lịch, thì Phật lịch là 2555), Đại Ca Diếp lo làm lễ trà tỳ cho Phật xong, 3 tháng sau thì lo tổ chức kết tập kinh điển lần thứ nhất, kéo dài trong 7 tháng. Hai mươi năm sau, Đại Ca Diếp truyền tâm ấn cho A-nan, có lẽ là năm 522 TCN, ông đi vào núi Kê Túc, nhập đại định, lúc đó ông 120 tuổi. Cách đây không lâu, khoảng đầu thế kỷ 20, tiến sĩ triết học Bá Khắc Sâm, người Anh, đã được gặp tôn giả Đại Ca-Diếp tại Kê Túc Sơn, Ấn Độ, mà không biết. Sau đó theo hướng dẫn, đã quy y, trở thành tỳ kheo, đến Rangun, Myanmar thiền định và gặp lại, mới biết đó là Đại Ca Diếp.
Đại Ca Diếp nhập định từ năm 522TCN đến nay 2012 DL, đã trải qua 2534 năm, có thể nói ông là người sống lâu nhất trên thế gian này. Ông ẩn thân bên trong tảng đá lớn nên không ai có thể nhìn thấy.
Khi nhập định sâu như Đại Ca Diếp hay Huệ Trì, nhất niệm vô minh đã dừng lại, nên thời gian cũng dừng lại, vì thời gian cũng là do tâm tạo. Việc đó tương đương với việc di chuyển bằng với tốc độ ánh sáng. Theo thuyết tương đối của Einstein, nếu một người ngồi trong phi thuyền bay với vận tốc anh sáng thì thời gian sẽ dừng lại, người đó sẽ sống vô lượng tuổi so với thời gian của trái đất. Nhưng khoa học chưa có khả năng thực nghiệm việc này, đó chỉ là lý luận. Còn Huệ Trì và Đại Ca Diếp là những người thực nghiệm, cũng đạt được hiệu ứng tương đương với lý luận khoa học. Thời hiện đại, Hư Vân hoà thượng cũng từng nhập định lâu khoảng nửa tháng mà ông chỉ cảm nhận thời gian chỉ mới chốc lát.
Câu chuyện của Huệ Trì và Đại Ca Diếp cho thấy số lượng thời gian lâu hay mau cũng là do tâm tạo chứ không có thật. Chẳng qua vì chúng ta đã quen với hạn tuổi trăm năm nên khó tin những chuyện như vậy.
Không có số lượng về vật thể hay năng lượng
Năng lượng là dạng tổng quát của vật chất. Nếu như vật chất có tới cả trăm nguyên tố khác nhau thì năng lượng có thể coi là dạng chung của tất cả các loại vật chất thông qua công thức nổi tiếng của Einstein : E= MC2
Nhưng năng lượng xuất phát từ đâu ? Theo vật lý lượng tử hiện đại, năng lượng xuất phát từ chân không lượng tử. Chân không lượng tử cũng chính là cái Không trong Phật giáo mà nhà vật lý Phạm Xuân Yêm mượn danh từ Không để diễn tả những khái niệm tương đồng giữa Phật giáo và khoa học. Ông nói :
“Cái Không lượng tử thực là trạng thái cơ bản, là cội nguồn và chốn trở về cũng như ra đi của vạn vật. Nó không rỗng tuếch chẳng có gì mà là cái thế lắng đọng của tất cả. Chân không-Vật chất-Không gian-Thời gian chẳng sao tách biệt, cái này có là cái kia có, cái này không thì cái kia không, đó là hệ quả của Lượng tử và Tương đối! Thực thế, thuyết Tương đối hẹp liên kết Không gian và Thời gian, còn Tương đối rộng nối Vật chất với Không-Thời gian và cuối cùng Lượng tử mang Chân không về với Vật chất và như vậy kết nối cả bốn khái niệm cơ bản trên.”
Chân không lượng tử (viết gọn thành Không) là trạng thái cơ bản tận cùng của vạn vật, nó vô hướng, trung hòa, mang năng lượng cực tiểu, trong đó chẳng hề vẩn gợn chút vật chất kể cả điện từ trường (ánh sáng nói riêng). Do những nhiễu loạn của năng lượng trong Không mà vật chất (cùng phản vật chất) nẩy sinh, tương tác, biến chuyển, phân rã và trở về với Không, cứ thế tiếp nối vòng sinh hủy. Tuy vậy năng lượng của Không lại vô hạn theo nguyên lý bất định Heisenberg. Cực tiểu nhưng vô hạn, nghịch lý này hẳn đòi hỏi một cuộc cách mạng trong nhận thức?” (Phạm Xuân Yêm – Cái Không trong lượng tử)
Trong chân không lượng tử, Vật chất (cũng là năng lượng) cực tiểu nhưng Năng lượng lại vô hạn, đó là một nghịch lý mà lý trí duy lý của con người không thể hiểu nổi. Ta chỉ còn một cách hiểu theo Phật giáo là năng lượng cũng không có số lượng. Theo Phật giáo thì tất cả năng lượng hay vật chất đều xuất phát từ Tâm. Cái Không, hay chân không lượng tử nói theo khoa học, cũng là Tâm bất nhị.
Bậc thánh như Giê su có thể vận dụng tính chất vô hạn của năng lượng để tạo ra phép mầu. Trong một buổi giảng đạo bên hồ Galilea (trên sông Jordan nay thuộc vùng Galilee Hạ) có hơn 5000 đàn ông tham dự, chưa kể đàn bà và trẻ con, họ đói. Trong số những người thân cận với ngài chỉ có 5 cái bánh và hai con cá, nhưng Giê-su có thể chia cho hơn 5000 tín đồ đến nghe giảng đạo ăn no bụng, giải tỏa cơn đói xong mà vẫn còn dư lại 12 giỏ bánh. Trong dân gian cũng có câu chuyện cái nồi Thạch Sanh đựng gạo, có thể lấy ra ăn mãi vẫn không hết. Chúng ta chỉ có một tấm ảnh, nhưng khi đưa lên internet, nó có thể được sao chép ra vô số tấm ảnh. Đây là những ví dụ về tính vô lượng hay không có số lượng của vật chất, hay năng lượng. Chỉ vì trong đời thường chúng ta không vận dụng được lý này nên “cho rằng” việc đó là hoang đường.
Trong bài Tứ pháp giới, tôi có đề cập Lý Sự vô ngại pháp giới. Nếu chân không lượng tử có năng lượng vô hạn thì việc biến ra vô lượng cái bánh cho tín đồ ăn mà Giê-su đã làm, là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Ai có đủ thần thông đều có thể làm được.
Bất nhị là tuyệt đối, không có đối đãi nhị nguyên. Bất nhị không phải là hai, nhưng cũng không phải là một. Ý nghĩa của bất nhị là tuyệt đối, tức không có đối đãi nhị nguyên. Bởi vì nếu là một sẽ đối lại với hai, với nhiều.
Nhị nguyên là những cặp phạm trù mâu thuẫn như : có và không, vật chất và tinh thần, sáng và tối, thiện và ác, hữu hạn và vô hạn, đúng và sai, quark và phản quark, electron và positron,…những cặp mâu thuẫn nhiều không kể xiết.
Nhị nguyên phát sinh khi có sự xuất hiện của chủ thể nhận thức (subject) và đối tượng bị nhận thức (object). Tâm trong Phật giáo vốn là bất nhị, bất biến, vô sanh, vô thuỷ vô chung. Nói tóm tắt là Tâm không bị giới hạn bởi không gian, thời gian và số lượng, bởi vì nó là nguồn gốc của tất cả những cái đó, của vũ trụ vạn vật. Nhưng khi nào thì Tâm bị phân hoá thành chủ thể và đối tượng ?
Như đã trình bày trong bài Niết Bàn và Chánh Biến Tri, về mặt công dụng Tâm là chánh biến tri, nó là nguồn năng lượng vô hạn. Nói theo khoa học thì Tâm là chân không lượng tử, là vô lượng lượng tử. Mỗi lượng tử có năng lượng được mô tả bằng công thức của Max Planck:
E = hv (E = năng lượng, h = hằng số Planck, v = tần số dao động của lượng tử)
Khi dùng electronvolt (eV) là đơn vị đo năng lượng thì:
Hằng số này có đơn vị đo là năng lượng, nhân với thời gian tính bằng giây (s = second).
Các lượng tử mà khoa học nhận thức và vận dụng cũng như diễn tả một cách cụ thể là quark, electron, photon, neutrino. Quark có nhiều loại nhưng nhiều nhất trên địa cầu là quark u (up) và quark d (down). Electron và đồng loại cũng có nhiều loại, mỗi loại có tên khác như muon, tau, nhưng chủ yếu trên địa cầu là electron. Photon là hạt ánh sáng, có khi hiện hữu dưới dạng sóng. Neutrino là hạt cực nhỏ, về mặt thực nghiệm, mới tìm thấy vào cuối thế kỷ 20. Tuyệt đại đa số vật chất trên địa cầu đều được cấu thành bởi quark u, quark d và electron. Nói chung các hạt hạ nguyên tử (hạt nhỏ hơn nguyên tử, là những thành phần cấu tạo nên nguyên tử) đều là hạt ảo.
Tính chất ảo được khẳng định bởi vì không thể tách riêng chúng ra, bắt chúng dừng lại để cho ta quan sát, sờ mó, đo đếm. Chúng chỉ hiện hữu trong mối liên hệ nhân duyên chặt chẽ với nhau và cũng chỉ hiện hữu trong mối quan hệ đối đãi giữa chủ thể và đối tượng. Chủ thể có thể là người quan sát hoặc thiết bị ghi nhận. Nếu không có chủ thể thì một vật ảo như nguyên tử không tồn tại, bởi vì nó không phải là một vật có thật trong thế giới khách quan, nó chỉ tồn tại trong nhận thức của chủ thể. Một vật thể như quả táo cũng không tồn tại nếu không có người nhận thức, hay nói chính xác là nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm thể là một cấu trúc ảo bất khả tri (nói theo nhà triết học Kant). Vì là một cấu trúc ảo tức không có thật, nên nó không cản trở một cấu trúc ảo khác, chẳng hạn cái thùng sắt, như thực nghiệm di chuyển trái táo ra khỏi thùng sắt đóng kín trong đoạn phía dưới của Trương Bảo Thắng.
Nói tóm tắt, tất cả nguyên tố vật chất trên địa cầu đều là cấu trúc ảo, do các hạt ảo là quark u, quark d và electron tạo thành. Chính vì Tâm có giác tánh, nó biết kết hợp các hạt ảo theo nhiều kiểu cấu trúc khác nhau để tạo thành các nguyên tố khác nhau như oxy, hydro, nitro, carbon, sắt, đồng, chì, kẽm v.v…Rồi nó biết kết hợp bốn nguyên tố oxy, hydro, nitro và carbon thành nước và các chất hữu cơ khác. Rồi nó biết tạo thành chất sống, thành tế bào, thành các cơ quan có chức năng chuyên môn trong cơ thể sinh vật như tim, gan, phổi, ruột, xương, thịt, mỡ, máu…để duy trì sự sống cho sinh vật. Rồi nó biết tạo thành các cơ quan để sinh vật có thể liên lạc với thế giới bên ngoài như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, bộ não. Tuyệt tác phẩm mà Tâm tạo ra được là con người có bộ não phát triển, có lý trí, có tình cảm. Sinh vật cũng là một cấu trúc ảo có khả năng phát sinh ra nhất niệm vô minh. Nhiều nhất niệm vô minh khởi lên liên tục tạo thành dòng tâm niệm hay tâm thức, từ đó hình thành cái ta bao gồm thân ngũ uẩn và dòng tâm niệm. Con người trở thành một chủ thể biết tư duy vì nó có ký ức, biết ghi nhớ, biết liên kết những sự kiện riêng lẻ của Sự pháp giới lại thành Lý pháp giới.
Tóm lại, Tâm bắt đầu bị phân hoá thành chủ thể và đối tượng khi nó hình thành được sinh vật có cơ thể, bắt đầu hình thành cái ta. Rồi cái ta này nhận thức các vật xung quanh thành đối tượng. Khi đã xuất hiện chủ thể và đối tượng thì không gian, thời gian và số lượng cũng đồng thời hình thành. Tâm vô lượng đã phân hoá thành vô số pháp, vô số chúng sinh, vô số vũ trụ, nói chung là Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới). Chúng sinh ở cõi Vô sắc thậm chí không còn thân ngũ uẩn mà chỉ còn dòng tâm niệm. Chúng ta đừng lấy làm lạ tại sao chúng sinh không có thân thể mà vẫn là sinh vật, đó là vì tính chất ảo, vì tánh không của pháp giới, nên chúng sinh ở Dục giới tuy có thân thể vật chất nhưng thân thể đó cũng chỉ là ảo mà thôi.
Khi đã xuất hiện chủ thể và đối tượng tức đã xuất hiện nhị nguyên, xuất hiện cặp phạm trù mâu thuẫn, xuất hiện sự hạn chế về không gian, thời gian và số lượng. Sự hạn chế này thì chúng ta ai cũng biết. Tuy nhiên tính chất ảo của vật chất thì ít ai biết, ít ai tin. Phật pháp đã nói đến tính chất ảo hoá của vật chất từ hơn 2500 năm nay. Khoa học ngày nay cũng bắt đầu hiểu vật chất thực ra chỉ là tâm thức. Sự ảo hoá được ứng dụng rộng rãi trong máy vi tính đem lại rất nhiều điều kỳ thú cho con người hiện đại. Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể. Các khoa học gia hàng đầu trên thế giới bắt đầu hiểu rằng chỉ có vật ở trong tâm thức, không có vật ở ngoài tâm thức, cho nên trong thực nghiệm khoa học không thể tách riêng chủ thể và đối tượng. Vô hình trung, khoa học cũng đề cập tới lý bất nhị.
Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).
Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại).
Khi các nhà khoa học ý thức rằng vật chất không có thực thể, không có thế giới gọi là “khách quan” chỉ có thế giới chủ quan của nhà khoa học, của nhà toán học. Tuy nhiên vì có nhiều nhà khoa học có cùng ý kiến với nhau nên họ “tưởng” rằng khách quan. Cũng vì vậy đã có nhiều nhà khoa học đề cập đến khủng hoảng của vật lý học. Chẳng hạn :
David Bohm (nhà vật lý Đại học London) quan niệm rằng thực tại mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày chỉ là một loại ảo tưởng giống như một bức tranh toàn ảnh (hologram). Dường như thực tại có hai mức: một mức ở sâu hơn gọi là mức tiềm ẩn (cuộn lại) /implicate (enfolded) và một mức gọi là mức tường minh (mở ra) /explicate (unfolded).
Năm 1962, cuốn “Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học” (Structure of Scientific Revolutions)của Thomas Kuhn , một trong những tác phẩm khoa học được trích dẫn nhiều nhất của thế kỷ 20, đã đặt dấu chấm hết cho quan điểm thực chứng logic -nền tảng của khoa học hiện đại (chủ yếu của phương Tây). Theo Kuhn, khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên-kỹ thuật, không gắn với bản thể, mà thuần túy là sản phẩm của tư duy con người. Hiện tại đây là quan điểm được chấp nhận rộng rãi nhất trong giới khoa học. Theo ông, không có biện pháp khách quan để đánh giá xem các lý thuyết tiến gần đến sự thật như thế nào. Ông tự nhận mình là một người thuộc trường phái Kant nhưng “với những phạm trù chuyển dịch” (“moveable categories”). Theo Kant, các phạm trù của tư duy là điều kiện tiên quyết cho mọi sự hiểu biết hoặc tri thức. Và, người ta gán cho khoa học là quy luật của tự nhiên (tức là khách quan), nhưng thực chất thì nó chính là sản phẩm của tư duy chủ quan của con người. Kuhn cũng đồng quan điểm đó, nhưng điểm mới của ông là: các phạm trù này luôn thay đổi trong các cuộc cách mạng khoa học. Như vậy, Kuhn cho rằng: khoa học không nhất thiết mang tính hợp lý (rational).
Gần đây, năm 2002, Stephen Hawking công bố bài giảng “Gödel & The End of Physics” (Gödel & sự kết thúc của vật lý học), thể hiện một sự thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức của ông về “Lý thuyết Cuối cùng” (Final Theory) của vật lý học, khác xa với những gì ông đã trình bầy trong cuốn “Lược sử thời gian” 11 năm trước.
Sự kết thúc của vật lý học theo Stephen Hawking là vì Kurt Gödel đã chứng minh định lý bất toàn. Vật lý học sẽ không bao giờ đi tới lý thuyết cuối cùng có thể giải thích tất cả mọi sự lý trong vũ trụ, bởi vì luôn luôn có mâu thuẫn phát sinh trong bất cứ hệ thống duy lý nào, dù cho chặt chẽ như toán học hay khoa học máy tính. Mâu thuẫn khiến không bao giờ có được lý thuyết cuối cùng hay lý thuyết giải thích được mọi thứ (Theory Of Everything – TOE).
Nếu các nhà khoa học chỉ có khả năng lý luận về tính chất chủ quan của vật chất, của khoa học, thì kỳ nhân Trương Bảo Thắng, tuy không có nhiều hiểu biết về khoa học, nhưng lại có khả năng thực nghiệm tính chất ảo tưởng của vật chất. Vì vật chất là ảo nên Trương Bảo Thắng có thể dùng ý niệm để di chuyển một vật đi xuyên qua vật rắn khác, mà cả hai vật đều không hề hấn gì. Hãy xem cuộc biểu diễn của anh. Người chủ trì cuộc biểu diễn là Trương Chấn Hoàn, chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Công nghiệp Quốc phòng Trung Quốc :
Bắc Kinh Nhân Dân Đại Hội Đường, trang nghiêm, vĩ đại, là nơi hội họp Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (tức Quốc Hội Trung Quốc) là nơi làm việc của Thường vụ Ủy viên Hội. Các hoạt động trọng đại của cả nước thường được cử hành tại đây. Các vị lãnh đạo Trung ương tiếp kiến khách nước ngoài và hội kiến với những nhân vật quan trọng đều tiến hành tại đây. Phàm những hoạt động được tổ chức tại đây đều có tính chất trọng yếu và quyền uy. Hôm nay, tại đại sảnh đường của Bắc Kinh Nhân Dân Đại Hội Đường, đèn hoa chiếu sáng, các nhà nhiếp ảnh, quay phim, ảo thuật gia, nhiều vị lãnh đạo và rất đông khán giả đều có mặt. Có người đến vì lòng hiếu kỳ, có người mang ánh mắt nghi ngờ, có người mang tâm lý vận động bài trừ, có người mang ánh mắt phủ định…tất cả vây quanh vũ đài, đợi Trương Bảo Thắng biểu diễn.
Trương Bảo Thắng cảm thấy rằng lần biểu diễn này tại Bắc Kinh không giống lần trước. Lần trước là biểu diễn hội báo, không khí hài hòa, nhưng chỉ là biểu diễn tương đối dễ dàng như thấu thị, dùng mũi nhận chữ. Còn lần này trong điều kiện cực kỳ nghiêm túc để giám định công năng của anh là thực hay giả, huống chi tại hiện trường rất nhiều người đang chuẩn bị “tìm cách phá bĩnh” nữa. Nhiều máy quay phim đặt ở các vị trí trên, dưới, bên phải, bên trái, mọi góc độ, sẵn sàng theo dõi mọi động tác của anh. Không khí thật là khẩn trương . Hạng mục biểu diễn là dùng “ý niệm di chuyển vật” Ngay cả những người tin tưởng sự tồn tại của đặc dị công năng cũng mướt mồ hôi trán thay cho Bảo Thắng, trong lòng suy nghĩ : anh ấy có làm được không ?
Biểu diễn bắt đầu. Trong một thùng sắt, bỏ vào hai trái táo (apple) vào, đậy nắp, dùng que hàn điện hàn kín. Người chủ trì để cho Trương Bảo Thắng dùng ý niệm lấy trái táo ra. Chỉ thấy anh im lặng, không gây tiếng động, trấn định tự tâm. Mọi con mắt nhìn chăm chăm vào người anh, quan sát nhất cử nhất động của anh. Một phút, hai phút, năm phút rồi mười phút trôi qua, đến khi bức màn trong não của anh xuất hiện một quả táo, anh mới dùng ý niệm mang trái táo đặt ở một góc của vũ đài. Lúc đó trên bức màn nhỏ trong não của anh không còn trái táo. Theo kinh nghiệm của anh, anh tin rằng một trái táo trong thùng sắt đã đi ra ngoài, trái kia vẫn còn trong thùng. Anh nói với mọi người : “một trái táo đã ra ngoài”. Nhiều người không tin, bởi vì họ thấy Trương Bảo Thắng trước sau vẫn đứng cách thùng sắt hơn một mét, anh hoàn toàn không chạm vào thùng sắt, trái táo làm sao ra ngoài được chứ ? Người chủ trì ra lệnh cho người mở nắp thùng sắt, mọi người đều phát hiện thiếu mất một quả táo. Bảo Thắng nói với mọi người, trái táo lấy ra đang nằm ở một góc vũ đài, người ta theo chỉ dẫn của anh, quả thật tìm thấy trái táo.
Chính lúc mọi người bàn luận sôi nổi, có người khen ngợi, có người hoài nghi, muốn tìm một khuyết điểm nào đó, một vị lãnh đạo thuộc Ban bí thư, nói : “Tôi được lãnh đạo ủy thác đến tham gia trắc nghiệm, cuộc biểu diễn vừa rồi tôi xem không rõ lắm, tôi hi vọng có thể làm một thí nghiệm ngay trên người mình”, tiếp đó ông dùng tay chỉ chiếc huy chương trên ngực mình, nói : “mời Trương Bảo Thắng dùng ý niệm mang nó đi, được không ?” Người chủ trì biết đây là người muốn vạch khuyết điểm, nên hướng về Bảo Thắng nói : “Anh thấy được không ?”. Bảo Thắng gật đầu. Chỉ thấy anh nhìn một chút chiếc huy chương trên ngực ông bí thư, mà không thấy anh đi lại gần ông ta, cự ly giữa hai người khoảng vài mét. Khán giả tại hiện trường có người nhìn ông bí thư, có người nhìn Trương Bảo Thắng, mọi người chờ đợi anh lên tiếng trả lời. Ông bí thư cũng đắc ý chờ đợi Bảo Thắng lên tiếng trả lời “được” hoặc “không được”. Không ngờ Trương Bảo Thắng không trả lời câu hỏi, chỉ nói : “di chuyển rồi”. Ông bí thư như đang mơ chợt tỉnh, vội dùng tay sờ vào trước ngực, nhưng cái huy chương đã biến đâu mất từ lúc nào, ông hoảng hốt tìm kiếm, trên dưới đều không thấy. Trương Bảo Thắng chỉ nói một câu : “huy chương đã ở trên thân người khác rồi” Không ít người lật đật mò tìm túi trên túi dưới của mình. Trong đám đông có người kêu lên : “trên người tôi có một chiếc huy chương, nó làm sao mà đeo vào được ?” Khi chiếc huy chương được chuyền đến tay ông bí thư, ông nhận ra nó ngay, đó chính là chiếc huy chương ông vừa mới đeo trên ngực. Ông bí thư bị á khẩu không nói nên lời. Người tại hiện trường còn chưa hết ý, đều hứng thú vây quanh Trương Bảo Thắng, nhiệt tình hỏi anh về cảm giác và công năng.
Khả năng kỳ lạ của Trương Bảo Thắng được các nhà khoa học Trung Quốc gọi là nhân thể đặc dị công năng. Anh đã biểu diễn rất nhiều lần cho các nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Trung Quốc, cho các nhà khoa học, về khả năng di chuyển vật thể bằng ý niệm, khả năng dùng mũi để nhận ra chữ viết trong mảnh giấy được gấp nhỏ bỏ vào phong bì dán kín, khả năng phục nguyên một tấm danh thiếp hay bức hoạ bị nhai nát, xé nát rồi bỏ vào thau nước…anh có thể phục hồi chúng như nguyên trạng, như chưa hề bị nhai nát, xé nát.
Với khả năng phục nguyên kỳ diệu, anh có khả năng làm cho một người bị xe đụng chết, sống lại, khoẻ mạnh như chưa hề bị đụng xe. Nhưng thực tế anh không làm điều đó, vì nó vi phạm luật nhân quả, vi phạm nghiệp báo. Điều này đã có truyền thống từ ngàn xưa. Mục Kiền Liên là vị đại đệ tử của Đức Phật, có thần thông quảng đại, nhưng vẫn phải tuân theo luật nhân quả, chấp nhận để cho bọn ngoại đạo sát hại bằng cách lăn đá đè chết. Đức Phật cũng có kể câu chuyện về luật nhân quả như sau :
Lúc Đức Phật Thích Ca chưa ra đời, nơi thành Ca Tỳ La Vệ có một làng chài lưới, trong làng có một hồ lớn chứa nhiều cá. Một năm, gặp lúc hạn hán, hồ khô nước cạn, cá trong hồ đều bị dân trong làng chài bắt hết, trong đó có một con cá thật lớn. Trong làng có một đứa bé không ăn thịt cá, thấy dân làng bắt được cá lớn đặc biệt, vì tính hiếu kỳ nên tiến đến gần, tay cầm cây gỗ gõ lên đầu con cá lớn ba cái. Sau khi Phật Thích Ca chứng đạo, vua nước Ba Tư Nặc rất mến Phật pháp, cưới con gái dòng họ Thích làm vợ, sinh được một người con là thái tử Lưu Ly. Thuở nhỏ, thái tử Lưu Ly đi học ở thành Ca Tỳ La Vệ, một hôm nghịch ngợm trèo lên tòa của Phật ngồi, bị người trong dòng họ Thích bắt gặp rầy la. Thái tử Lưu Ly vì thế mà để tâm thù hận. Khi thái tử Lưu Ly lên làm vua nước Ba Tư Nặc, vì căm giận dòng họ Thích nên xuất quân vây đánh thành Ca Tỳ La Vệ, bắt dân trong làng định giết hết. Môn đệ của Đức Phật Thích Ca đều cầu xin Phật tìm cách giải cứu dòng họ Thích qua khỏi cơn tai ách. Đức Phật trả lời:
- Đó là định nghiệp của dòng họ Thích, không thể cứu được.
Mục Kiền Liên tôn giả, vị đệ tử thần thông đệ nhất của Đức Phật, muốn cứu dân trong thành, tay cầm lấy bát bay lên không trung, dùng sức thần thông thu hết 500 người dòng họ Thích ra khỏi thành. Nhưng khi mở bình bát ra, thấy trên bát đều chứa đầy máu người. Chúng đệ tử hỏi Phật vì nguyên do gì sức thần thông của Mục Kiền Liên không cứu được dòng họ Thích trong thành. Đức Phật đem chuyện chài lưới của thành Ca Tỳ La Vệ bắt cá trong hồ thuật lại cho chúng đệ tử nghe. Phật nói: – Vua Lưu Ly chính là con cá lớn ngày xưa, binh lính đánh thành là những con cá trong hồ bị bắt giết. Những người bị giết trong thành Ca Tỳ La Vệ đều là những người bắt cá, ăn cá trong hồ. Đứa bé gõ vào đầu con cá lớn chính là tiền thân của ta, nên trong lúc vua Lưu Ly dẫn binh đánh thành, ta bị nhức đầu ba ngày. Thần thông cũng không thể thắng được nghiệp.
Nói cho cùng thì sống chết cũng chỉ là giả tạm, không phải thật, trên đời không có gì là thật cả. Trương Bảo Thắng chỉ biểu diễn nối liền cái đuôi bị cắt rời của con chuột bạch để chứng tỏ khả năng phục nguyên mà thôi.
Tóm lại, bất nhị trong Phật giáo có hai ý nghĩa cơ bản: bất nhị không phải là hai, cũng không phải là một, mà là không có số lượng. Bất nhị cũng có nghĩa là tuyệt đối, tức không có sự đối đãi giữa chủ thể và đối tượng. Thiền sư kiến tánh, ngộ đạo là cách nói của thế gian. Thật ra không có thiền sư cầu đạo, cũng không có cái tánh hay cái đạo để thấy, để ngộ. Mà chỉ có trở về với Tâm bất nhị vô thuỷ vô chung, không còn thấy có mình hay có tâm gì nữa cả.- Tag :
- Truyền Bình