Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quy Y Phật

Saturday, May 4, 202418:02(View: 1130)
Quy Y Phật

Quy Y Phật

Bhikkhu Bodhi

Vô Minh 

 sam hoi 2



Bước đầu
 tiên để bước vào con đường Phật giáo là quy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy y là Đức PhậtĐấng Giác Ngộ. Bởi vì hành động quy y Đức Phậtđánh dấu sự khởi đầu của một chương mới trong cuộc đời chúng ta, nên chúng ta nên dừng lại và suy ngẫm nhiều lần về ý nghĩa của bước quan trọng này. Chúng ta thường có xu hướng thực hiệnnhững bước đầu tiên một cách hiển nhiênTuy nhiên, chỉ khi thỉnh thoảng chúng ta xem xét lại các bước này với nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa của chúng thì chúng ta mới có thể chắc chắn rằng các bước tiếp theo sẽ đưa chúng ta đến gần hơn với đích đến mong muốn.

Việc quy y Đức Phật không phải là một hành động đơn lẻ chỉ xảy ra một lần và sau đó được hoàn tất một cách tuyệt đối. Đó là hoặc phải là một quá trình phát triển liên tụctrưởng thành song song với việc thực hành và hiểu biết về Pháp của chúng taQuy y không có nghĩa là ngay từ đầu chúng ta đã hiểu biết rõ ràng về những nguy hiểm khiến cho việc quy y trở nên cần thiết hoặc về mục tiêu mà chúng ta khao khát hướng tới. Sự hiểu biết về những vấn đề này tăng dần theo thời gian. Nhưng trong phạm vi mà chúng ta đã thực sự quy y với ý định chân thànhchúng ta nên thực hiện một nỗ lực nghiêm túc để mài giũa và làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của mình về các đối tượng mà chúng ta đã hướng tới làm nền tảng cho sự giải thoát của mình.

Khi quy y Phật, điều quan trọng nhất ngay từ đầu là phải làm rõ quan niệm của chúng ta về Đức Phật là gì và Ngài hành hoạt như một nơi quy y như thế nào. Nếu thiếu sự sáng tỏ như vậy, cảm giác quy y của chúng ta có thể dễ dàng bị ô nhiễm bởi những quan điểm sai lầmChúng ta có thể gán cho Đức Phật một địa vị mà Ngài chưa bao giờ tuyên bố cho riêng mình, như khi chúng ta coi Ngài là hóa thân của một vị thần, là hiện thân của Đấng Tuyệt đối, hay là một vị cứu tinh cá nhân. Mặt khác, chúng ta có thể làm mất đi địa vị cao quý mà Đức Phật xứng đáng được nhận, như khi chúng ta coi Ngài đơn giản như một nhà hiền triết nhân từ, như một triết gia châu Á sắc sảo khác thường, hay như một thiên tài về công nghệ thiền định.

Một cái nhìn đúng đắn về bản chất của Đức Phật sẽ nhìn nhận Ngài theo danh hiệu mà Ngài tự gán cho mình: như một Đấng Toàn Giác (samma sambuddha). Ngài tự giác ngộ bởi vì Ngài đã hoàn toàn tự mình thức tỉnh được những chân lý thiết yếu của sự tồn tại, không cần có thầy hay người hướng dẫn. Ngài hoàn toàn giác ngộ bởi vì Ngài đã hiểu được những sự thật này một cách trọn vẹn, trong tất cả các phân nhánh và hàm ý của chúng. Và với tư cách là một vị Phật, Ngài không chỉ tự mình thấu hiểu những chân lý này mà còn giảng dạy chúng cho thế giới để người khác có thể thức tỉnh khỏi giấc ngủ dài vô minh và đạt được quả vị giải thoát.

Quy y Đức Phật là một hành động gắn liền với một cá nhân lịch sử cụ thểẩn sĩ Cố Đàm (Gotama), dòng dõi của bộ tộc Thích Ca (Sakyan), người đã sống và giảng dạy ở thung lũng sông Hằng vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. Khi chúng ta quy y Đức Phậtchúng ta nương tựa vào cá nhânlịch sử này và nội dung giảng dạy bắt nguồn từ Ngài. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh điểm này vì theo quan điểm thời thượng cho rằng quy y Đức Phật có nghĩa là chúng ta quy y “tâm Phật bên trong chúng ta” hay vào “nguyên lý phổ quát của sự giác ngộ”. Những ý tưởng như vậy, nếu khôngđược kiểm soát, có thể dẫn đến niềm tin rằng bất cứ điều gì chúng ta nghĩ ra trong trí tưởng tượng của mình đều có thể coi là Pháp thực sự. Ngược lại, truyền thống Phật giáo khẳng định rằng khi chúng ta quy y Đức Phậtchúng ta đặt mình dưới sự hướng dẫn của một người hoàn toàn khác biệt với chúng ta, một người có những tầm cao mà chúng ta vừa mới bắt đầu thoáng nhìn thấy.

Nhưng khi chúng ta nương tựa Sa-môn Gotama làm nơi nương tựachúng ta không chỉ hiểu ngài như một cá nhân cụ thể, một bậc hiền triết có trí tuệ và hiểu biếtChúng ta coi ngài như một vị Phật. Chính quả vị Phật của ngài - việc ngài sở hữu đầy đủ những phẩm tính tuyệt vời đi kèm với sự giác ngộ viên mãn - đã khiến ẩn sĩ Gotama trở thành nơi nương tựa. Trong bất kỳ thời đại vũ trụ nào, một vị Phật là người đầu tiên vượt qua khối u tối của vô minh bao trùm thế giới và khám phá lại con đường đã mất dẫn đến Niết Bàn, sự chấm dứt đau khổ. Ngài là người mở đường, người tiên phong, người khám phá ra con đường và tuyên bố con đường để những người khác, theo dấu vết của Ngài, có thể dập tắt vô minh của họ, đạt được trí tuệ thực sự và phá vỡ xiềng xích trói buộc họ vào vòng luân hồi sinh tử.

Để quy y Đức Phật là chân chính, nó phải đi kèm với sự cam kết đối với Đức Phật như một vị Thầy vô songchí tôn và tối thắng. Nói một cách chính xácĐức Phật lịch sử không phải là duy nhất vì đã có những Đấng Toàn Giác trước đó đã xuất hiện trong những thời đại quá khứ và sẽ có những vị khác sẽ xuất hiện trong những thời đại tương lai. Nhưng trong bất kỳ hệ thống thế giới nào, không thể có một vị Phật thứ hai xuất hiện trong khi giáo lý của một vị Phật khác vẫn còn tồn tại, và do đó xét về mặt lịch sử nhân loạichúng ta có lý khi coi Đức Phật là một vị thầy độc nhất, không có vị thầy tâm linh nào sánh bằng mà được nhân loại biết đến. Chính sự sẵn sàng thừa nhận Đức Phậtlà “người thầy vô thượng cho những người cần được thuần hóa, bậc thầy của chư thiên và con người” là dấu hiệu nổi bật của một hành động quy y Đức Phật đích thực.

 

Đức Phật đóng vai trò là nơi nương tựa bằng cách giảng dạy Giáo phápNơi nương tựa thực sự và cuối cùng, được gắn liền với Pháp như là nơi nương tựa, là Niết bàn, “yếu tố bất tửthoát khỏi sự bám víutrạng thái không buồn phiền và không có vết nhơ” (Itiv. 51). Pháp là nơi nương tựa bao gồm mục tiêu cuối cùngcon đường dẫn đến mục tiêu đó và nội dung giáo lý giải thích việc thực hành con đườngĐức Phật là nơi nương tựa không có khả năng ban cho chúng ta sự giải thoátbằng hành động ý chí. Ngài tuyên bố con đường phải đi và những nguyên tắc cần phải hiểu. Công việc thực sự của việc bước đi trên con đường được giao lại cho chúng ta, những đệ tử của Ngài.

Phản ứng đúng đắn đối với Đức Phật là nơi nương tựa là sự tin tưởng và sự tự tin. Cần phải có niềm tin vì giáo lý do Đức Phật dạy đi ngược lại với sự hiểu biết bẩm sinh của chúng ta về bản thânvà định hướng tự nhiên của chúng ta đối với thế giới. Do đó, việc chấp nhận lời dạy này có xu hướng khơi dậy sự phản kháng bên trong, thậm chí gây ra sự nổi loạn chống lại những thay đổi mà nó đòi hỏi chúng ta phải thực hiện trong cách sống của mình. Nhưng khi chúng ta đặt niềm tin vào Đức Phậtchúng ta sẽ mở lòng đón nhận sự hướng dẫn của Ngài. Bằng việc quy y ngài, chúng tachứng tỏ rằng chúng ta đã sẵn sàng thừa nhận rằng những khuynh hướng tự khẳng định và chấp thủ cố hữu của chúng ta thực ra là nguyên nhân gây ra đau khổ cho chúng ta. Và chúng ta sẵn sàng chấp nhận lời khuyên của Ngài rằng để thoát khỏi đau khổ, những khuynh hướng này phải được kiểm soát và loại bỏ.

Niềm tin vào Đức Phật là nơi nương tựa của chúng ta ban đầu được đánh thức khi chúng ta chiêm ngưỡng những đức tính cao siêu và giáo lý tuyệt vời của Ngài. Nó phát triển thông qua việc thực hiện đào tạo của chúng taLúc đầuniềm tin của chúng ta vào Đức Phật có thể do dự, bị đâm thủng bởi những nghi ngờ và bối rối. Nhưng khi chúng ta chuyên tâm thực hành con đường của Ngài, chúng ta thấy rằng những phiền não của chúng ta dần dần giảm bớt, những phẩm chất tốt đẹp tăng trưởng, và cùng với đó là cảm giác tự doan bình và niềm vui ngày càng tăng. Trải nghiệm này khẳng định niềm tin ban đầu của chúng ta, giúp chúng ta tiến thêm một vài bước nữa. Cuối cùng khi chúng ta tự mình nhìn thấy được sự thật của Pháp thì sự quy y vào Đức Phật trở thành bất khả xâm phạm. Sự tin cậy lúc bấy giờ trở thành sự tin chắc, sự tin chắc rằng Đức Thế Tôn là “người nói, người tuyên bố, người mang lại điều tốt lành, người cho Bất tử, là Pháp chủ, Như Lai”.

 

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 94)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 133)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 125)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 213)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 169)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 269)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 217)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 283)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 553)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 468)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 431)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 444)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 393)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 354)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 448)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 662)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 480)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 466)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 623)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 719)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 556)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 635)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 808)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 794)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 840)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 694)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1024)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 842)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 803)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 781)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 893)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 799)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1234)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 836)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 859)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 956)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 962)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 857)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 932)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 899)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 997)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1143)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1228)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 899)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 1001)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1099)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1362)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1064)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1154)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1368)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1221)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1199)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1379)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1521)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1847)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1661)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1564)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(View: 1438)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM