Suy Niệm Về Lời Kinh
Nếu Có Công Đức Nên Tự Giấu Kín Nếu Có Lỗi Lầm Nên Tự Phát Lộ[1]
Chúc Phú
Nhân duyên đưa đến lời dạy này của Đức Phật bắt nguồn từ sự cầu thỉnh chân thành của trưởng giả tên là Kiên Cố(Kevadha), được ghi lại trong bộ kinhTrường A-hàm:
-Lành thay, bạch Thế Tôn! Cúi mong Ngài hãy dạy các vị Tỳ-kheo, kể từ hôm nay trở đi, nếu có gặp Bà-la-môn, trưởng giả hay cư sĩ nào đến thì nên vì họ mà hiện thần thông[2], hiển bày pháp thượng nhân[3].
Theo vị trưởng giả này, trong những trường hợp cần thiết, vị Thánh tỳ-kheo nên thị hiện thần thông biến hóa để nhiếp phục số đông dân chúng, tạo nhiều thuận duyên trên bước đường hóa đạo. Với suy nghĩ như vậy, vị ấy đã cầu thỉnh đức Thế Tôn nhiều lần. Nhân đó, Đức Phậtđã giới thiệu ba loại thần thông. Theo kinh Kiên Cố, đó là: Một là thần túc, hai là quán sát tâm người và ba là giáo giới[4].
Đối với hai loại thần thông thần túc và quán sát tâm thì các hàng ngoại đạo vẫn có thể thực hiện. Theo Đức Phật, Với thần chú Cù-la[5] hoặc thần chú Càn-đà-la[6], các hàng ngoại đạo có thể biến hiện ra nhiều hình thức đặc dị hoặc có thể dò xét cả tâm người. Theo kinh này, Đức Phật không khuyến khích vị Thánh đệ tử triển khai hai loại thần thông đó; dù rằng trong những đệ tử của Ngài, số lượng các vị Thánh đệ tử thông đạt hai loại thần thông đó nhiều vô số. Ở đây, loại thần thông được đức Phật khuyến khích thực hành và cho phép triển khai đó chính là Thần thông giáo hóa. Nhờ thần thông giáo hóa mà giúp cho chúng sanh khởi niểm tin chánh pháp, phát nguyện tu tập và từng bước giải thoát cho mình và cho người. Cuộc đờihoằng hóa không mỏi mệt của của Đức Phật là một minh chứng cho thần thông giáo hóa.
Từ lịch sử kinh điển, có thể thấy rằng, đệ tử của Đức Phật thành tựu thần thông như là hoa trái tự nhiên được kết nên trong quá trình tu tập và có thể xem đó như một dạng công đức. Việc che giấu công đức được xem như đức hạnh cần thiết của người đệ tử Phật.
Trong Culla Vagga ghi nhận về trường hợp tôn giả Piṇḍolabhāradvāja. Do thách thức của ngoại đạo, do vì muốn hàng phục sáu vị giáo chủ như Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambala, Pakudha Kaccāyana, Sañjaya Velaṭṭhaputta, Nigaṇṭha Nāṭaputtado, do suy nghĩ rằng cần thể hiện thần thông để vinh danh Đức Phật và giáo pháp nên tôn giả thị hiện thần thông biến hóa, bay lên cột cao để lấy chiếc bát gỗ bằng đàn hương mà vị đại phú thành Vương Xá(Rājagaha) đã treo lên. Sau khi được vị phú gia này tặng thưởng bát gỗ, tôn giảPiṇḍolabhāradvāja đi về tu viện với số đông dân chúng tán thán và ca ngợi không ngớt ở phía sau. Nhân sự kiện này, Đức Phật đã nghiêm khắc dạy bảo:
- Này Bhāradvāja, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp sa-môn, không được phép, không nên làm. Này Bhāradvāja, vì sao ngươi lại để lộ pháp thượngnhân tức là sự kỳ diệu của phép thần thông trước hàng tại gia vì mục đích cái bình bát gỗ tầm thường?[7]
Trong số những đệ tử của Phật, vị đệ tử lớn tự nhận rằng mình đã che giấu thần thông là tôn giả A-nậu-lâu-đà được ghi nhận trong kinh Ca-hy-na:
- Này chư Hiền! Như con voi lớn của nhà vua, cao từ bảy cho đến gần tám khuỷu tay rồi lấy lá cây đa-la mà che đậy cả thân voi[8]; cũng như tôi luôn che đậy sáu phép thần thông này[9].
Như vậy, qua những nguồn tư liệu Kinh và Luật được dẫn ở trên đã cho thấy rằng, Đức Phậtchủ trương và khuyến khích hàng đệ tử nên che giấu những công đức mà mình thành tựu. Việc che giấu này đem đến nhiều ý nghĩa và một trong những ý nghĩa đó chính là biểu hiện cho tính khiêm hạ cao tuyệt của hàng xuất sĩ.
Bên cạnh đó, trong tu tập và trong thực tế đời sống, bất kỳ ai do vô tình hay cố ý đều có những lỗi lầm thể hiện ở mọi cấp độ. Đối với lỗi lầm, quan điểm của Đức Phật là nên bày tỏ ra, thuật ngữ Phật giáo gọi là Phát lộ. Theo Kinh Kiên Cố nêu trên, Phật dạy: Nếu có lỗi lầmnên tự phát lộ.
Phát lộ là nói ra sự thật về những lỗi lầm, bày tỏ ra với một ai đó, hoặc với một số bậc xuất gia tùy theo nhân duyên và mức độ của lỗi lầm. Có những lỗi nhỏ thì chỉ cần bày tỏ với một người và có những tội lỗi phải tổ chức phát lộ và sám hối trước một số lượng tăng chúng, được quy định rõ ràng trong những văn bản luật.
Biết tỏ bày lỗi lầm của mình là một trong những cách thức nuôi dưỡng tâm tàm quý. Nhờ tâm tàm quý mà các nguyên tắc đạo đức nói chung và các quy định giới luật nói riêng được tuân hành và giữ vững. Kinh Tăng Chi Bộ (A.I.51), đã khẳng định vai trò quan trọng của tâm tàm quý: Hai pháp trắng này, này các Tỷ-kheo, che chở cho thế giới. Thế nào là hai? Tàm và quý[10].
Có những trường hợp các tỳ-kheo lậm bệnh ngặt nghèo, không thể qua khỏi, trong những pháp thức hỗ trợ cho vị ấy thì Đức Phật thường yêu cầu các vị ấy phát lộ những lỗi lầm của mình, nếu có, trước lúc lâm chung. Nhờ sự phát lộ ấy, tâm của vị xuất gia kia được thanh thản, an nhiên và tùy duyên đi theo nghiệp của mình.
Có thể thấy rằng, lời Phật dạy: Nếu có công đức nên tự che giấu, nếu có lỗi lầm nên tự phát lộ không những là kim chỉ nam cho đời sống tu tập mà còn là phương châm sống thể hiệntính khiêm hạ, trung thực và đầy bản lĩnh. Nếu như trong cuộc sống này, mỗi một chúng ta có thể thực hiện được một trong hai mệnh đề nêu trên thì tự thân sẽ gặt hái được những giá trịtích cực khả kiến.
[1] Nguyên tác: Nhược hữu công đức đương tự phú tàng, nhược hữu quá thất đương tự phát lộ (若有功德,當自覆藏,若有過失,當自發露). Xem tại, Kiên Cố kinh 堅固經 (T.01. 0001.24. 0101b24).
[2] Nguyên tác Hiện thần túc (現神足 - Iddhi pāṭihāriya). Tham chiếu, D.11: Iddhipāda: Thần túc, có nơi dịch là thần thông (神通), thần biến (神變) hay như ý túc (如意足).
[3] Kiên Cố kinh 堅固經 (T.01. 0001.24. 0101b24).
[4] Tham chiếu, D.11: Ba loại thần túc gồm: 1. Thần biến thị đạo (神變示導 - Iddhipāṭihāriya). 2. Ký tâm thị đạo (記心示導 - Ādesanāpāithāriya) 3. Giáo giới thị đạo (教誡示導 - Anusāsani-pāṭihāriya)
[5] Nguyên tác Cù-la chú (瞿羅咒). Tham chiếu, D.11: Atthi Maṇiko nāma vijjā (Có minh chúgọi là Maṇika).
[6] Nguyên tác Càn-đà-la chú (乾陀羅咒). Tham chiếu, D.11: Atthi Gandhāri nāma vijjā (Có minh chú gọi là Gandhāri).
[7] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 11, Hợp Phần, Tiểu Phẩm, Chương Các tiểu sự, Nxb. Tp. HCM, 2023, tr. 713.
[8] Nguyên tác Nhược vương đại tượng, hoặc hữu thất bảo, hoặc phục giảm bát, dĩ đa-la diệp phú chi (若王大象, 或有七寶, 或復減八, 以多羅葉覆之). Từ quan trọng trong câu kinh này chính là bảo (寶), nguyên tác Pāli của từ này viết là ratana. Ratana ngoài nghĩa vừa nêu còn mang nghĩa là đơn vị đo chiều dài thời xưa, bằng khoảng một cánh tay, từ cùi chỏ đến đầu ngón tay (hattha). Bổ trợ cho nghĩa này, Tạp. 雜 (T.02. 0099.1144. 302c13) ghi: Ví như voi báu của Chuyển luân Thánh vương cao bảy, tám khuỷu tay mà một chiếc lá Đa-la có thể che phủ (譬如: 轉輪聖王寶象, 高七八肘, 一多羅葉能映障者). Tương tự, S.16.11 - II. 217 ghi: sattaratanaṁ vā, āvuso, nāgaṁ aḍḍhaṭṭhamaratanaṁ vā tālapattikāya chādetabbaṁ maññeyya, yo me cha abhiññā chādetabbaṁ maññeyyā”ti. (Này Hiền giả, ai nghĩ rằng có thể che đậy sáu thắng trí của ta được, thời không khác gì họ nghĩ rằng có thể lấy một lá cây ta-la mà che đậy một con voi lớn đến bảy hay tám khuỷu tay rưởi bề cao. HT. Thích Minh Châu, dịch).
[9] Như ngã phú tàng ư thử lục thông (如我覆藏於此六通): Cách diễn đạt của bản Hán khác với bản S.16.11 - II. 217.
[10] Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tập 4. Kinh Tăng Chi Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch. Nxb. Hồng Đức, 2021, Tr.52.
- Tag :
- Chúc Phú