Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thực Hành Thiền Chỉ Quán

Wednesday, July 24, 202418:27(View: 534)
Thực Hành Thiền Chỉ Quán

Thực Hành Thiền Chỉ Quán

Nguyên Giác

tanh khong



Bài này được viết để khảo sát và mời gọi thực hành Thiền Chỉ Quán. Đây là pháp môn giải thoát do Đức Phật dạy, có hiệu lực cực kỳ nhanh chóng, có thể cảm nhận tăng thượng ngay trong vài ngày, hay thậm chí ngay trong vài phút đồng hồ. Những gì được viết nơi đây sẽ chủ yếu dựa vào Kinh Phật, bởi vì người viết tự thấy sức tu, sức học đều kém, tự thấy không có thẩm quyền riêng nào.

Đức Phật nói rằng đây là pháp để giải thoát. Nương theo pháp này sẽ dễ dàng đoạn tận tham, sân, si. Trong Tăng Chi Bộ, Kinh AN 2.21-31, bản dịch của Thầy Minh ChâuĐức Phật dạy:

Có hai pháp này, này các Tỷ-kheo, thuộc thành phần minh. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu tập, này các Tỷ-kheo, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minhlàm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát.” (1)

Để độc giả có lòng tin vào Thiền Chỉ Quán, nơi đây xin giải thích thêm. Rằng trong vài thập niên qua, chúng ta không nghe nói nhiều về Thiền Chỉ Quán. Thậm chí trên YouTube, một số tu sĩ lại nói rằng Đức Phật dạy rằng Tứ Niệm Xứ là pháp duy nhất để giải thoátngoài ra đều là không cần hoặc là của ngoại đạoLời nói đó dựa vào một bản dịch thiếu sót. Nếu đọc và đối chiếu nhiều bản dịch tiếng Anh của Tạng Pali, sẽ thấy lỗi dịch thiếu sót đó. Thực tế, ngay cả với người kém tiếng Anh, chỉ cần đọc và đối chiếu nhiều Kinh trong tiếng Việt, cũng thấy lỗi dịch thiếu sót đó. Đức Phật đã dạy rằng có rất nhiều pháp để giải thoátTuy nhiên, cũng cần phân tích điểm này: thí dụ, nếu chúng ta định danh rằng các pháp quán bất tịnh, quán vô thườngquán vô ngã, quán nhàm chán… cũng chính là “niệm pháp” thì đây chính là chi thứ tư của Tứ Niệm Xứ. Chỗ này, độc giả nên đọc và đối chiếu các bản dịch tiếng Anh sẽ thấy chữ “pháp duy nhất” là cách dịch thiếu sót.

Như trong Kinh MN 52, Đức Phật dạy 11 pháp để giải thoát, chứ không phải có một pháp nào là duy nhất, theo lời giảng của ngài Ananda, trích bản dịch của Thầy Minh Châu:

Khi được nghe nói vậy, Gia chủ Dasama, người ở thành Aṭṭhaka bạch Tôn giả Ānanda: -- Bạch Tôn giả Ānanda, như người tìm một kho tàng cất dấu, trong một lúc tìm được mười một kho tàng cất dấu. Cũng vậy, bạch Tôn giả, con đi tìm một pháp môn bất tử mà được nghe một lần mười một pháp môn bất tử. Bạch Tôn giả, như ngôi nhà người ta có đến mười một cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn giả, chỉ với một cửa bất tử trong mười một cửa bất tử này, con có thể đạtđược sự an toàn cho con.” (2)

Trong Kinh AN 10.60, Đức Phật dạy có 10 pháp để giải thoát, chứ không phải có một pháp nào là duy nhất, và với 10 pháp này, chỉ trong vài khoảnh khắc là có thể làm thuyên giảmbệnh. Bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:

Này Ananda, nếu Thầy đi đến Tỷ-kheo Girimànanda và đọc lên mười tưởng, thời sự kiệnnày có thể xảy ra: Tỷ-kheo Girimànanda sau khi được nghe mười tưởng, bệnh của vị ấy có thể được thuyên giảm ngay lập tức! Thế nào là mười? Tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nguy hại, tưởng đoạn tận, tưởng từ bỏ, tưởng đoạn diệt, tưởng nhàm chán đối với tất cả thế giớitưởng vô thường trong tất cả hành, tưởng niệm hơi thở vô hơi thở ra.” (3)

Trong khi đó, với Kinh DA 12, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ, ghi lời Đức Phật dạy về nhiều pháp dẫn đến Niết Bàn, không hề nói rằng chỉ có một pháp nào là duy nhất, trích:

Thế nào là một pháp dẫn đến Niết-bàn? Thường tinh cần tu niệm xứ về thân. Đó là một pháp dẫn đến Niết-bàn...

“Thế nào là hai pháp dẫn đến Niết-bàn? Chỉ và quán...

“Thế nào là ba pháp dẫn đến Niết-bàn? Ba tam-muội: không tam-muội, vô tướng tam-muội, vô nguyện tam-muội....

“Thế nào là bốn pháp dẫn đến Niết-bàn? Bốn niệm xứthân niệm xứthọ niệm xứtâm niệm xứpháp niệm xứ...

“Thế nào là năm pháp dẫn đến Niết-bàn? Năm căn: tín căntinh tấn cănniệm cănđịnh căntuệ căn....

“Thế nào là sáu pháp dẫn đến Niết-bàn? Sáu tư niệm: niệm Phậtniệm Phápniệm Tăngniệm thíniệm giớiniệm thiên...

“Thế nào là bảy pháp dẫn đến Niết-bàn? Bảy giác chiniệm giác chitrạch pháp giác chitinh tấn giác chikhinh an giác chiđịnh giác chihỷ giác chixả giác chi...

“Thế nào là tám pháp dẫn đến Niết-bàn? Tám Hiền Thánh đạo: chánh kiếnchánh tư duychánh ngữchánh nghiệpchánh mạngchánh tinh tấnchánh niệmchánh định....

“Thế nào là chín pháp dẫn đến Niết-bàn? Chín thiện pháp: 1. hỷ, 2. ái, 3. duyệt, 4. lạc, 5. định, 6. thật tri, 7. trừ xả, 8. vô dục, 9. giải thoát....

“Thế nào là mười pháp dẫn đến Niết-bàn? Mười trực đạochánh kiếnchánh tư duychánh ngữchánh nghiệpchánh mạngchánh tinh tấnchánh niệmchánh định, chánh giải thoátchánh trí...” (4)

Thứ tự tu Chỉ và Quán là tùy theo học nhân, sẽ tự tìm thấy thế nào là thích nghi. Trong Kinh AN 4.170, Ngài Ananda nói rằng có người tu chỉ trước, rồi quán sau; có người tu quán trước và chỉ sau; có người tu song hành chỉ quán đẳng dụng; và trường hợp thứ tư là khi dao độngtrong tâm đột nhiên dứt bặt, thì thánh đạo hiền lộ ra.

Kinh AN 4.170, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích như sau:

Tôn giả Ananda nói như sau: -- Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này. Thế nào là bốn?

Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trướccon đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trướccon đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sửđược đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.” (5)

Trong Kinh SA 186, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng về chỉ và quán như sau:

Phật bảo các Tỳ-kheo: Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu chỉ. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu chỉ? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu chỉ; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu chỉ… […]

“…Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau, phải biết như thật và đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử phải chánh quán như vậy, đối với sắc sẽ sanh ra nhàm chán, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng sanh ra nhàm chán. Khi đã nhàm chán rồi thì sẽ không thích, vì đã không thích nên giải thoátgiải thoát tri kiến: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa’.” (6)

Thiền Chỉ Quán có thể dẫn tuần tự tới Tứ Thiền, trong nhiều Kinh dẫn trên, như Kinh MN 52 hay như Kinh SA 964 và nhiều Kinh khác. Tuy nhiên, đối với riêng pháp Quán, mà không cần vào các tầng Thiền, thậm chí không cần vào Sơ Thiền, cũng có thể giải thoát, trong đó nổi tiếng có Kinh Susima Sutta còn gọi là Kinh SN 12.70, bản tương đương A Hàm là Kinh Tu-thâm (Kinh SA 347). Hay nổi tiếng nhất là Kinh Bahiya.

Về pháp quán để giải thoát, trong Kinh MN 37, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu, trích: “Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”, vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọkhổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy, nên không chấp trước một vật gì ở đời; do không chấptrước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-Kheo ái tận giải thoátcứu cánh thành tựucứu cánh an ổn khỏi các khổ áchcứu cánh phạm hạnhcứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người.” (7)

Có một cách rất tiện lợiĐức Phật dạy rằng, có thể vào Sơ Thiền -- trạng thái hỷ lạc sau khi tâm ly dục, ly bất thiện pháp, có tầm (hướng tâm vào), có tứ (dán tâm vào), nhất tâm – và từ Sơ Thiền quán vô thườngquán vô ngãquán không, quán khổ thì sẽ giải thoát. Đối với người đắc Sơ Thiền, người này có thể giữ trạng thái này trong cả khi đi, đứng, nằm, ngồi… và nếu thường trực giữ như thế, nếu chưa giải thoát, khi cuối đời sẽ hóa sanh, tức là sanh thiênđắc quả Bất Lai (A Na Hàm) và từ đó sẽ vào cõi bất tửnhập Niết bàn.

Đức Phật dạy như thế (từ Sơ thiền vào giải thoát) trong Kinh AN 9.36, bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:

Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng: “Y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận”, như vậy được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục… chứng và trú sơ Thiền. Vị ấy, ở đây đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: “Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát áily thamđoạn diệt, Niết-bàn”. Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặcnếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp áiấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.” (8)

Như thế nào để biết mình đã vào Sơ Thiền? Đó là một cảm thọ hỷ lạc trên toàn thân được Đức Phật mô tả trong Kinh AN 5.28, bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:

Này các Tỷ-kheo, như thế nào là sự tu tập Thánh chánh định gồm có năm chi phần? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục… chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất với tầm, với tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuầnVí như, này các Tỷ-kheo, như một người hầu tắm hay đệ tử hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước. Cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho dung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.” (9)

Cách để vào Sơ Thiền tiện nhất là qua hơi thở. Nên chú tâm vào hơi thở dịu dàng, nơi cảm thọ ấm, thoải mái, nhẹ nhàng nơi hai đầu mũi khi hơi thở vào và ra. Buông bỏ hết tất cả mọi chuyện, buông hết tất cả những gì khởi lên trong tâm. Khi thấy 5 yếu tố hiện ra: tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm (applied thought, sustained thought, rapture, happiness, and one-pointedness of mind) thì đó là Sơ thiền. Trong Kinh AN3.63, Đức Phật nói rằng ngài trong các thời đi đứng nằm ngồi đều có thể an trụ nơi bốn tầng thiền, tùy ýThực tếchúng ta nên nhắm tới Sơ Thiền là đủ, vì sẽ dựa vào nơi đây để quán vô thường để giải thoát.

Tới đây, chúng ta nói tới Thiền Chỉ Quán trong “Luận Đại Thừa Khởi Tín” một tác phầm của Ngài Mã Minh Bồ Tát. Pháp này còn gọi là Chơn Như Tam Muội. Nơi đây, chúng ta dựa vàobản Việt dịch của Thầy Thích Thiện Hoa trong ấn bản năm 1961 dịch và giảng tại Phật HọcĐường Nam Việt.

Chúng ta có thể đối chiếu Thiền Chỉ Quán này với Thiền Tông của Bồ Đề Đạt Ma. Pháp này không nói về các tầng thiền, vì pháp Chỉ Quán này, còn gọi là Chơn Như Tam Muội là không nương vào đất, nước, gió, lửa (buông tứ đại), không nương vào thấy, nghe, hay biết (buông cả danh-sắc, hay là buông cả thân-tâm), không tưởng cảnh giới ngoài tâm (ngoài dứt muôn duyên), không khởi tưởng niệm (trong không khởi niệm), nơi cái được niệm tưởng tư lường biến mất và chính ngay cái tâm đang niệm tưởng tư lường cũng biến mất (ảnh chiếu và gương chiếu đều được nhận ra là không, là rỗng, là tịch lặng).

Chương thứ tư Tín Tâm Tu Hành được Thầy Thích Thiện Hoa dịch như sau:

Thế nào là tu Chỉ, Quán?_ "Chỉ" nghĩa là đình chỉ tất cả các vọng tưởng (định), để tuỳ thuậntheo quán không (xa ma tha); "Quán" nghĩa là quán sát các tướng nhơn duyên sanh diệt(huệ) để tuỳ thuận theo quán giả (tỳ bác xa na). Sao gọi là tuỳ thuận?_ Do hành giả từ từ tu tậpmột lần cả Chỉ và Quán, đều không rời nhau, nên gọi là tuỳ thuận.

Nếu tu "Chỉ" (định) hành giả phải ở chỗ thanh vắng, ngồi ngay thẳng, tâm chơn chánh, chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc và hư không, chẳng nương đất, nước, gió, lửa; chẳng nương thấy, nghe, hay biết, cho đến các tưởng niệm đều diệt trừ, rồi hành giả dẹp luôn cái "tâm niệm" trừ tưởng niệm nữa.

Do tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, mỗi niệm không sanh, mỗi niệm không diệt, nên hành giả phải không các tưởng niệm và cũng không tưởng cảnh giới ngoài tâm, rốt sau rồi lấy tâm trừ tâm. Nếu tâm vọng tưởng rong ruỗi, thì hành giả phải liền đem trở lại chánh niệm. Phải biết "Chánh niệm" đây, tức là "Duy tâm", không có ngoại cảnh. Và cái tâm này cũng không hình tướng gì có thể tưởng niệm được.

Lại nữa, trong tất cả thì giờ, khi đi đứng nằm ngồi, tới lui qua lại, làm tất cả việc, hành giả phải thường nhớ phương tiện (phương tiện tuỳ duyên chỉ), nghĩa là tuỳ thuận quán sátHành giả tu tập như vậy lâu ngày thuần thục, thì tâm được an trụ; do tâm an trụ lần lần mạnh mẽ, nên dẹp sâu phiền nãotín tâm tăng trưởng, đặng tuỳ thuận vào chơn như tam muội, mau thành vị Bất thối. Chỉ trừ những người nghiệp chướng sâu dày, nghi ngờ bài báng không tin, hoặc ngã mạn biếng nhát, thì không thể nhập Chơn như tam muội được. Và hành giả nhờ nương pháp Chơn như tam muội này mà biết được pháp giới duy nhứt; nghĩa là nhận rõ Pháp thân của chư Phật và thân chúng sanh bình đẳng không hai, nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam muội. Phải biết Chơn như là căn bản của các pháp tam muội; nếu hành giả tu pháp tam muội này, thì lần lần sẽ được vô lượng pháp tam muội.” (10)

Sẽ có một số người nghi ngờ rằng Thiền Chỉ Quán trong Luận Đại Thừa Khởi Tín không hề được Đức Phật dạy trong Kinh Nikaya và Kinh A Hàm. Bởi vì Tứ Niệm Xứ còn phải dựa vàodanh sắc của khối ngũ uần (Thân, Thọ, Tâm, Pháp) để niệm, trong khi Thiền Chỉ Quán của Đại Thừa là một khối tỉnh thức của gương tâm, nơi dứt bặt các niệm và không còn thấy có thân thọ tâm pháp nào để phải niệm nữa (Thiền TôngChánh niệm, tức là niệm vô niệm).

Đức Phật trong Kinh SA 926 (Tạng A Hàm) và Kinh AN 11.9 (Tạng Nikaya) đã khen ngợi những người tu theo Thiền Chỉ Quán của Luận Đại Thừa Khởi Tín (và Thiền Tông của Bồ Đề Đạt Ma) là những con tuấn mã, những con ngựa giỏi của Chánh pháp. Nơi đây, chúng ta trích dẫn lời Đức Phật từ Kinh AN 11.9, bản dịch của Thầy Minh Châu:

Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứThiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứThiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứThiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứThiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn có Thiền tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền tư như vậy, chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm thiênvới chúng Phạm thiên, dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục.” (11)

Nếu đọc kỹ đoạn vừa trích dẫn trên, chúng ta sẽ thấy lại Kinh Kim Cang về lời dạy là “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (nơi tâm không chỗ trụ, Niết bàn sẽ hiển lộ). Và đó là những kinh chúng ta đã khảo sát Tạng Pali về các trường hợp đốn ngộgiải thoát tức khắc của ngài Bahiya, của đại thần Santati, của chàng nghệ sĩ gánh xiếc Uggasena… khi tâm các vị này hốt nhiên buông hết các sắc thanh hương vị xúc pháp của quá khứ, không mơ tưởng tới sắc thanh hương vị xúc pháp của vị lai, và không nắm giữ sắc thanh hương vị xúc pháp của cái bây giờ và ở đây. Buông hết cả ba thời.

Cảnh giới đó, Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) còn gọi là buông bỏ thân tâm. Tức là tư lường cái không tư lường. Tức là trong khối tỉnh thức của gương tâm, không còn thấy thân thọ tâm pháp nào để niệm nữa, bởi vì các pháp vốn xưa nay là rỗng, lặng. 

GHI CHÚ:

(1) Kinh AN 2.21-31 https://suttacentral.net/an2.21-31/vi/minh_chau

(2) Kinh MN 52: https://suttacentral.net/mn52/vi/minh_chau

(3) Kinh AN 10.60: https://suttacentral.net/an10.60/vi/minh_chau

(4) Kinh DA 12: https://suttacentral.net/da12/vi/tue_sy

(5) Kinh AN 4.170: https://suttacentral.net/an4.170/vi/minh_chau

(6) Kinh SA 186: https://suttacentral.net/sa186/vi/tue_sy-thang

(7) Kinh MN 37: https://suttacentral.net/mn37/vi/minh_chau

(8) Kinh AN 9.36: https://suttacentral.net/an9.36/vi/minh_chau

(9) Kinh AN 5.28: https://suttacentral.net/an5.28/vi/minh_chau

(10) Luận Đại Thừa Khởi Tín: https://thuvienhoasen.org/p19a3244/15-tin-tam-tu-hanh-bon-mon-tin-tam-va-nam-mon-tu-hanh

(11) Kinh AN 11.9: https://suttacentral.net/an11.9/vi/minh_chau

Kinh SA 926: https://suttacentral.net/sa926/vi/tue_sy-thang

 
______________________

Xem thêm:
Con đường duy nhất? (Bình Anson)

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 159)
Chúng ta lập ra kế hoạch, nhưng rồi lại không thể thực hiện. Khi không thể đạt được mục tiêu, chúng ta cảm thấy căng thẳng.
(View: 423)
tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường, như là rửa bình bát khất thực, may y áo, hay chăm sóc các bậc trưởng lão...
(View: 593)
Thiền Phật giáo có hai nội dung, đó là thiền Chỉthiền Quán.
(View: 554)
Phật sử ghi nhận Thiền đã có từ lâu đời, trước khi Bồ-tát Siddhartha Gautama xuất gia cầu đạo giải thoát.
(View: 642)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (?-?), dịch giả Hán Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) là kinh thuộc hệ thượng thừa,
(View: 592)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(View: 924)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướngchủng tộc, trong nhiều không gianthời gian khác nhau
(View: 1087)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(View: 1255)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(View: 1220)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(View: 1324)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(View: 1439)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(View: 1293)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(View: 1408)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(View: 1179)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(View: 1524)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(View: 1899)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(View: 1480)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(View: 1796)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(View: 1674)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(View: 1571)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(View: 1822)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(View: 2082)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(View: 1906)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(View: 1931)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(View: 3266)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(View: 2355)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(View: 3557)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(View: 2815)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(View: 2204)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(View: 3058)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(View: 2646)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(View: 3002)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(View: 14084)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(View: 3471)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(View: 8017)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(View: 4946)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(View: 2966)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(View: 3687)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(View: 2940)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(View: 3584)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(View: 3287)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(View: 4037)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(View: 4180)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(View: 3616)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(View: 3568)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(View: 4820)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(View: 6692)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(View: 6298)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(View: 6203)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(View: 3551)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(View: 6196)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(View: 2625)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(View: 2607)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(View: 2921)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(View: 2731)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(View: 3727)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(View: 5599)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(View: 5609)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(View: 4484)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM