Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép trong kinh điển hay các bộ ngữ lục, cho rằng đó là chân lý, không biết rằng đó là sự ngộ nhận.
Phật thuyết rất nhiều kinh điển, có tới hàng ngàn quyển, số lượng rất là đồ sộ, đó chỉ là phương tiện nhằm mục đích cứu khổ, giải thoát chúngsinh khỏi điên đảo mộng tưởng chứ không phải là tuyên thuyết chân lý. Người tu không cần thiếtphải đọc tất cả kinh điển trong bộ Đại Tạng Kinh. Thử xem những thuyết giảng căn bản nhất của Phật giáo.
Phật thuyết Tứ Diệu Đế 四妙諦 còn gọi là Tứ Thánh Đế 四聖諦 tiếng Phạn là catvāri āryasatyāni nghĩa là bốn sự thật kỳ diệu. Đó là bốn sự thật tương đối chứ không phải tuyệt đốibao gồm Khổ Tập Diệt Đạo.
I/ Khổ 苦dukkha Phật nói rằng đời là khổ, 4 cái khổ cơ bản là : sinh lão bệnh tử cái nào cũng đều là khổ, ngoài ra còn 4 thứ khổ khác (tứ khổ 四苦)bao gồm : 5.Cầu bất đắc khổ, ví dụ yêu một đối tượng muốn kết hôn nhưng bị từ chối nên khổ. 6.Ái biệt ly khổ, chẳng hạn đôi vợ chồng yêu nhau nồng thắm nhưng vì chiến tranh, chồng phải đi chinh chiến nên phải xa nhau, vì vậy khổ, chưa kể chồng tử trận, vợ ở nhà trông chờ mãi chẳng thấy về, ôm con chờ mãi hóa thành đá như nàng Tô Thị. 7.Oán tắng hội khổ, ghét cay ghét đắng nhưng lại ở cạnh bên nhau, hàng ngày gặp nhau rất khó chịu nên khổ. Người Nga và người Ukraine hiện nay đang gặp cảnh khổ đó, bắn giết nhau hàng triệu người đã chết mà vẫn chưa chịu thôi. 8. Ngũ ấm sí thạnh khổ 五陰熾盛苦 tức là 5 uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoạt động mạnh gây khổ. Chẳng hạn thân thể béo phì khổ; cảm giác thân thể ngứa ngáy viêm da cơ địa khắp người khổ; suy nghĩ tưởng tượng quá nhiều tối ngủ không được khổ; một bộ phận nào đó của cơ thể hoạt động quá mạnh như tim đập mạnh và quá nhiều nhịp (pulse) huyết áp tăng cao, mệt, khổ; ý thức phân biệt quá nhiều nhớ không hết khổ, chẳng hạn một học sinh phải tiêu hóa rất nhiều bài vở để hy vọng thi đậu vào một trường danh tiếng, mệt óc khổ.
Sinh lão bệnh tử đối với nhiều người là khổ nhưng có phải tất cả mọi người đều nhất trí cho rằng sinh lão bệnh tử là khổ không ? Không hẳn. Có thể có nhiều người không coi sinh là khổ, có người còn muốn sinh nhiều con. Già cũng không hẳn là khổ. Nếu tuổi già sống khỏe mạnh không bệnh hay ít nhất là không bệnh nặng, vẫn yêu đời, có cuộc sống lành mạnh, thì có gì là khổ đâu ? Chết cũng không hẳn là khổ, già chết là qui luật của cuộc sống. Sống vui vẻ khỏe mạnh cho tới cuối đời rồi chết, chẳng có gì là khổ cả.
Như vậy đế thứ nhất Khổ cũng không phải là chân lý, nó cũng chỉ có tính tương đối thôi. Cuộc đời không nhất định là phải khổ. Khổ chỉ là một tâm niệm thôi.
II/ Tập 集 samudaya là tập hợp những nguyên nhân, những thói quen dẫn đến khổ. Cuộc sống của con người sở dĩ khổ là do thói quen gọi tập khí 習氣Vàsana. Những thói quen mê lầm điên đảo mộng tưởng chính là nguyên nhân của cái khổ chứ không phải bản thân cuộc đời là khổ. Bản chất cuộc sống của con người chính là thế lưu bố tưởng 世流布想 nghĩa là cái tưởng tượng trải qua nhiều đời nhiều kiếp đã hình thành nên cái thói quen nhận thức gọi là tập khí. Tập khí chung của xã hội gọi là cộng nghiệp 共業 còn tập khí riêng của từng cá nhân gọi là biệt nghiệp 别業 Cộng nghiệp của người dân ở Hải Nam, Quảng Châu, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội …là bị cơn bão số 3 Yagi đánh vào. Nhưng chỉ có một số ít người ở các địa phương đó bị chết và bị thương vì bão, đó là biệt nghiệp của họ.
Phật nói tập khí là nguyên nhân của khổ, tham sân si cũng chính là tập khí, nên muốn thoát khổ thì phải sửa đổi tập khí tức là phá bỏ thói quen mê lầm điên đảo mộng tưởng. Thói quenđó là vô minh 無明Avidyā Vô minh là mê mờ, là tưởng tượng, là chấp trước. Vì vô minh nên phát sinh tham, sân, si là 3 thứ chủ yếu tạo nên khổ. Thực tế không có hoa đốm nhưng vì vô minh con người tưởng tượng ra hoa đốm. Kinh điển xưa dùng từ hoa đốm trong hư không 虚空之花 (khapuṣpa). Ngày nay với khoa học chúng ta có thể hiểu hoa đốm là các hạt cơ bản của vật chất (particles of matter). Hạt cơ bản chỉ xuất hiện khi có tâm niệm, nếu không có tâm niệm thì hạt cơ bản chỉ là sóng tiềm năng vô hình. Chính vì vậy mà Phật giáo nói Nhất thiết duy tâm tạo.
Chính tâm niệm của con người tạo ra thế giới. Tâm niệm lành thì tạo ra thế giới hòa bình anlạc. Tâm niệm ác thì tạo ra thế giới nghèo đói, độc ác, bạo loạn, chiến tranh, khổ sở. Tâm niệm tham sân si thì tạo ra khổ.
III/ Diệt 滅 nirodha là diệt trừ nỗi khổ. Bởi vì thực tế của đời sống có quá nhiều nỗi khổ đau như nói trên nên hành giả tu hành phải tu tập để giải trừ đau khổ. Sau khi đã xóa sạch tất cả mọi khổ đau thì hành giả đạt được sự an lạc vĩnh cửu gọi là niết bàn. Bởi vì tập khí của chúng sinh là tham ái, là dục lạc và mê muội sân hận từ đó dẫn tới khổ. Vậy muốn diệt khổphải từ bỏ các loại ái dục như : tài, sắc, danh, thực, thụy. Không được tham tiền và tài sản; không được ham muốn vật chất nhất là sắc đẹp của phụ nữ; không được ham mê danh vọng, địa vị xã hội, chức tước; không được ham ăn uống món ngon, vật lạ, cao lương mỹ vị; không được lười biếng thích ngủ nghỉ hưởng nhàn. Chấp ngũ uẩn ngã là mê muội nên phải phá ngã chấp; phải thoát khỏi vô minh bằng cách nhận ra lục căn, lục trần, lục thức (gọi chung là 18 giới) đều là nguồn gốc, cơ sở nhận thức mê lầm không phải chân lý nên phải phá. Trong lục trần (6 loại đối tượng của lục căn bao gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì quan trọng nhất, cần phải phá nhất là pháp trong đó chủ yếu nhất là không gian, thời gianvà số lượng vật chất. Ba loại pháp chủ yếu đó nếu không phá được thì không bao giờ có thể giác ngộ. Ngày nay khoa học cũng đã nhận ra tính chất biểu kiến không phải tuyệt đối chân thật của không gian, thời gian, số lượng vật chất, qua thí nghiệm liên kết lượng tử (quantum entanglement).
Tóm lại muốn diệt khổ thì phải phá được ngã chấp và pháp chấp.
IV/ Đạo 道 magga là con đường đưa đến sự diệt khổ (dukkha). Muốn diệt khổ thì phải đoạn diệt ái dục (愛慾 taṇhā) do đó hành giả phải bố thí (pháp thí, tài thí, để tập hạnh buông bỏ); trì giới để hạn chế dục lạc, ít nhất đối với cư sĩ tại gia là giữ 5 giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). Ngoài ra còn phải tu tập theo các pháp môn như Thiền định, Tứ Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp), Bát Chánh Đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định). Tuy nhiên có một điều mà các vị sư khi giảng về Tứ Diệu Đế ít đề cập, đó là Trung Đạo(không biên kiến tức là không thiên lệch một bên của các cặp phạm trù mâu thuẫn (chẳng hạn thiện-ác, đúng-sai, tốt-xấu, âm-dương, sáng-tối, hay-dở, sạch-dơ v.v…)
Bố thí, trì giới là tu phước thì sẽ được phước báo, chẳng hạn sinh vào nhà lương thiện khá giả, thân thể khỏe mạnh không tật nguyền, không gặp tai ương hoạn nạn.
Tu các pháp môn như thiền định, tứ niệm xứ, bát chánh đạo, trung đạo thì phát huy được trí tuệ từ đó giác ngộ và giải thoát.
Tứ Diệu Đế có phải là chân lý tuyệt đối không ?
Tứ Diệu Đế được coi là bốn sự thật cơ bản của đời sống con người và con đường thoát khổ. Nhưng đó có phải là 4 chân lý tuyệt đối không ? Câu trả lời là không, tại sao ?
Nguyên lý nền tảng cốt lõi nhất của Phật pháp là Nhất thiết duy tâm tạo 一切唯心造. Như vậy Tứ Diệu Đế cũng chỉ là tâm niệm thôi chứ không phải là chân lý tuyệt đối. Tâm niệm đó dựa trên thế lưu bố tưởng 世流布想 và chấp trước tưởng 執著想
Tại sao tất cả các pháp kể cả những pháp rất to lớn, rất hiển nhiên như không gian, thời gian, vũ trụ vạn vật, mặt trời, hành tinh, trăng sao, người và vật đều chỉ là tâm niệm dù là những vật rất to lớn, rất vững bền, tuổi thọ hàng tỉ năm cũng chỉ là tâm niệm chứ không phải tuyệt đối chân thật ?
Bởi vì Phật pháp đã nêu nguyên lý Nhất thiết pháp vô tự tính 一切法無自性 mà nguyên lý này ngày nay đã được khoa học chứng thực.
Tất cả các pháp, từ các hạt cơ bản nhỏ nhất của vật chất cho tới những vật thể khổng lồ như vũ trụ vạn vật hay các định lý toán học hoặc các định luật khoa học đều chỉ là tâm niệm chủ quan cả, không có cái gì là thực thể khách quan cả. Chúng không có sẵn đặc trưng đặc điểm, thực tế chỉ là tánh không, còn gọi là vô thủy vô minh hay vô ký không, thực tế chỉ là bộ não con người tưởng tượng ra đặc trưng đặc điểm và gán ghép vào tánh không vô ký khiến chúng trở thành vũ trụ vạn vật, thành ra cái gọi là không gian, thời gian, số lượng vật chất.
Hạt cơ bản như quark, electron, photon, bản thể chỉ là sóng tiềm năng vô hình, là hoa đốmtrong hư không 虚空之花 nhưng trong tâm niệm của con người thì chúng xuất hiện thành hạt cơ bản. Chúng có thể xuất hiện đồng thời ở vô số vị trí khác nhau với số lượng không hạn chế, tạo ra không gian vũ trụ. Và từ vị trí này đi tới vị trí kia thì dù nhanh như ánh sáng 300.000km/giây cũng phải mất thời gian, chẳng hạn một vụ nổ siêu tân tinh (supernova explosion) ở cách xa Trái đất 10 tỷ năm ánh sáng, khi con người thấy được vụ nổ thì đã qua 10 tỷ năm rồi.
Một vụ nổ với bức xạ có thể chiếu sáng cả một dải thiên hà trong một giờ, một ngày hay thậm chí vài tuần. Đó chính là những vụ nổ siêu tân tinh, một trong những cảnh tượng đẹp nhất của vũ trụ.
Vụ nổ siêu tân tinh (supernova explosion)
Rồi các hạt cơ bản kết hợp với nhau tạo thành nguyên tử, phân tử, vật thể. Các vật thể như con người thì đi chậm hơn nhiều, đi bộ thì vài km/giờ, đi xe máy thì vài chục km/giờ, đi máy bay thì từ vài trăm cho đến 1000km/giờ.
Đó là cách mà không gian, thời gian, số lượng vật chất được tạo ra từ tâm niệm và Phật giáogọi tên bằng thuật ngữ
Nhất thiết duy tâm tạo 一切唯心造.
Đức Phật trình bày Tứ Diệu Đế để tín đồ có khái niệm về thực tế cuộc sống trên trần gian có nhiều đau khổ (Khổ đế), mà muốn giải quyết đau khổ thì phải hiểu nguyên nhân cơ bản của nó (Tập đế). Tiếp đó Đức Phật nói cụ thể hơn về cách diệt khổ là phải phá vô minh, giải trừtham sân si (Diệt đế). Cuối cùng phương pháp tiến hành là bố thí, trì giới, thiền định qua các pháp môn như Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo. Đó là Đạo đế. Tuy nhiên xóa bỏ đau khổ không phải là xóa bỏ cuộc sống, mà chỉ là nhận ra cuộc sống là giả tạm bao gồm thế lưu bố tưởngvà chấp trước tưởng, hành giả chỉ cần buông bỏ chấp trước tưởng chứ không nhất thiếtbuông bỏ tất cả, không phải là hướng tới tịch diệt vĩnh hằng. Nếu cho rằng ngộ đạo là hướng về tịch diệt vĩnh hằng, đó chính là lọt vào vô ký không, chưa phải là ngộ đạo. Thế nên hành giả phải biết trung dung không thiên lệch về một bên, nên phải giữ Trung Đạo.
Cuộc sống Trung đạo trong thế giới ngày nay
Hành giả tu theo Đạo Phật sống trên đời ngày nay, hàng tỉ tín đồ không nhất thiết phải xuất gia, tất cả đều vô chùa tu, sống bằng của bố thí từ bá tánh. Người xuất gia chỉ là một số rất ít người, có đủ trí tuệ và đức độ để hướng dẫn quần chúng, làm gương mẫu cho tín đồ mà thôi.
Còn lại đại đa số tín đồ chỉ là cư sĩ tại gia thôi, họ vẫn làm việc phục vụ cho xã hội, ứng dụngkhoa học kỹ thuật để nâng cao đời sống vật chất cho mọi người không quá nghèo đói thiếu thốn. Họ vẫn có gia đình vợ con, chồng con, không nhất thiết phải sống như tu sĩ. Tuy nhiênhành giả phải hiểu tánh không để không quá chấp thật, không quá đam mê vật chất, không chìm đắm trong tài, sắc, danh, thực, thụy. Các tu sĩ xuất gia phải hướng dẫn cho tín đồ hiểu rõ về bản chất tánh không của vũ trụ vạn vật thì tín đồ mới thôi đam mê vật chất, không chạy theo dục lạc.
Không nên quá tin vào quan điểm của các nhà khoa học thế gian, kể cả những nhà khoa học danh tiếng hàng đầu thế giới. Bởi một lẽ dễ hiểu là tri thức khoa học, tri kiến của con ngườiluôn luôn bị hạn chế mà ngay cả trong giới khoa học cũng có người nhận ra, chẳng hạn Nguyên lý bất định (Uncertainty principle) do Werner Heisenberg nêu ra năm 1927, hay Định lý bất toàn (Incompleteness theorem) do Kurt Gödel công bố năm 1931. Nói chung các nhà khoa học thế gian không phải là người kiến tánh giác ngộ, họ chỉ khám phá ra các quy luật, định lý mà xã hội loài người có thể dựa vào đó để tạo ra nền văn minh và cuộc sống dễ chịuhơn. Nên những định luật hay định lý do họ phát hiện cũng chỉ là tương đối. Nhưng cũng không thể phủ nhận họ vì các phát kiến của họ có đóng góp thiết thực vào cuộc sống hạnh phúc của con người, giải quyết được vấn đề nghèo đói và một số nỗi khổ về bệnh tật, thiếu thốn.
Tóm lại chúng ta nên hiểu Phật giáo, nên hiểu Thiền không phải là tuyên thuyết những chân lý cố định mà chỉ là phá chấp, phá sự cố chấp vào tập khí, phá sự chấp thật, phá thói quenchạy theo đam mê vật chất dục lạc.
Cuối cùng thì hành giả là người có tự do quyết định điều gì nên làm, điều gì không nên làm, họ phải có trí tuệ ít nhất là giải ngộ nếu chưa phải là kiến tánh giác ngộ. Họ tự do quyết địnhcuộc đời của mình diễn ra như thế nào, làm chủ được vận mệnh, người giác ngộ thì còn có thể làm chủ được sinh tử.
Truyền Bình
- Tag :
- Truyền Bình