Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Tuệ: “quán Tâm Trên Tâm”

Thursday, November 14, 202418:39(View: 3312)
Thiền Tuệ: “quán Tâm Trên Tâm”

Thiền Tuệ: “Quán Tâm Trên Tâm”


Thích Nữ
 Hằng Như

hinh phat 23

 

 

I. DẪN NHẬP 

Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm XứQuán Tứ Niệm Xứ là thiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.  Những lần sinh hoạt trước, chúng ta đã học qua phần quán Thân và quán Thọ. Quán Thân có sáu đề mục để thực tập, đó là quán hơi thở; quán bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi;  quán các hành hoạt của thân; quán tứ đạiđịa đạithủy đạiphong đạihỏa đại; quán 32 thể trược; và quán tử thi. Quán Thọ là quán các cảm thọ nơi thân tâm gồm Khổ thọ là những cảm thọ  buồn phiền, không dễ chịuLạc thọ là những cảm thọ dễ chịuthích thúhài lòngXả thọlà những cảm thọ bình thường không khổ cũng không lạc.

Hôm nay chúng ta bước qua phần thứ ba, đó là “Quán Tâm trên Tâm”.   Muốn quán Tâmchúng ta cần tìm hiểu xem Tâm là cái gì?

 

II. KHÁI NIỆM VỀ TÂM

Tâm tiếng Pali là Citta. Theo định nghĩa của A-tỳ-đàm (Abhidhamma), Tâm được dịch là  “cái biết cảnh”  hay “cái bắt cảnh”.  Có cảnh mới có tâm, không có cảnh không có tâm. Con ngườicó sáu cảnh, đó là  Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Tâm nhận biết cảnh qua sáu căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý gọi là Nhãn thức, Nhỉ thức, Tỷ thứcThiệt thứcThân thức và Ý thức. Như vậy tâm duyên cảnh mà sinh khởi. Từ một trong sáu Thức, phát sinh nhiều tâm khác như: Tâm thương, tâm ghét, tâm vui, tâm buồn, tâm hận, tâm oán, tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm pháptâm ấntâm bình đẳng, chân tâmvọng tâm v.v... gọi chung là tâm sở.

Tâm gồm có ba phần: Ý (Mano), Thức (Vinnana), Tâm (Citta). Tên gọi khác là Ý CănÝ thức và Trí năng.  Ý hay Ý căn có khả năng tư duysuy nghĩ về những chuyện đã xảy ra, thường hướng về quá khứ nên trong kinh gọi là Tâm quá khứÝ thức thì có khả năng tổng hợp, phân biệtnhận định... đưa đến quyết định qua lời nói, hành động ngay trong hiện tạinên gọi là Tâm hiện tạiVai trò của Tâm (hay Trí năng) là huân tập, dung chứa những thông tin từ Ý Căn và Trí năng rồi phát họa ra ý tưởng hành động trong tương lai, nên được xếp là Tâm tương lai. Cả ba gọi chung là Tâm Ba thời.

Về tướng trạng, tâm có hai mặt: Động và Tịnh. Động là mặt nổi. Tịnh là mặt sâu lắng yên lặng.

1) Động hay tướng ảo: Là mặt nổi của tâm, do cảnh vật bên ngoài tác động thông qua sáu căn, nên cảnh hiện khởi trong tâm để cho thức thấy biết. Gọi là động vì lúc nào tâm cũng dao độngbất an, do suy nghĩphân biệt phán đoán, vẻ vời của ý căný thức và trí năng. Gọi là ảo, vì tâm thay đổi từng sát-na, lúc vui, lúc buồn, lúc thương, lúc ghét, lúc vầy lúc khác... nên cái biết của nó không thường hằng. Tâm này còn có tên gọi khác là Vọng tâmTâm thế gianhay Tâm ba thời.

1) Tịnh hay tướng thật: Chiều sâu bên trong của tâm, tức bản thể của tâm là sự yên lặng, sâu lắng, bất sanh bất diệt. Ở nó, có cái “tự biết” thường hằng bẩm sinh không cần học hỏi. Đối tượng như thế nào nó biết như thế đó, không khen, không chê...  tức không chế định bất cứ điều gì lên đối tượng nên nó được xem là thật tướng. Tên gọi khác của tâm này là Tánh giác, là Chân tâm hay Tự tánh v.v...

Khi tu tập bất cứ pháp môn nào, đức Phật cũng dạy hành giả nên quay về chỗ Thật tướngcủa tâm, tức quay về Chân tâm, nghĩa là hành giả trở lại sống  với cái Tự tánh chân thật của mình. Thật tướng chỉ thuần là cái “Tự Biết” là cái “Tuệ tri”. Đối tượng hiện hữu nó biết, không có đối tượng, nó cũng biết. Cho nên đặc tính của Thật tướng tâm là thường biết, thường tri.  

 

III. KINH VĂN “QUÁN TÂM”

Bây giờ chúng ta vào đề mục chính là học phần “Quán Tâm” trong bài Kinh Tứ Niệm Xứ. Kinh ghi như sau:

“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, tuệ tri: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, tuệ tri: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, tuệ tri: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, tuệ tri: “Tâm có si”; hay với tâm không si, tuệ tri: “Tâm không si”.

 Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: “Tâm được thâu nhiếp”. Hay với tâm tán loạntuệ tri: “Tâm bị tán loạn”. Hay với tâm quảng đạituệ tri: “Tâm được quảng đại”; hay với tâm không quảng đạituệ tri: “Tâm không được quảng đại”. Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: “Tâm hữu hạn”. Hay với tâm vô thượngtuệ tri: “Tâm vô thượng”. Hay với tâm có định, tuệ tri: “Tâm có định”; hay với tâm không định, tuệ tri: “Tâm không định”. 

Hay với tâm giải thoáttuệ tri: “Tâm có giải thoát”, hay với tâm không giải thoáttuệ tri: “Tâm không giải thoát”.

Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh tríchánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâmtrên tâm” (hết trích)

 

 IV. TÌM HIỂU Ý NGHĨA - KINH VĂN  

- Thế nào là “Quán Tâm trên Tâm”: Quán là quan sát, là tuệ tri, là ghi nhận, là hay biết... Chữ Tâm đầu tiên được hiểu là Thức.  Chữ Tâm thứ hai trong “Quán Tâm trên các Tâm” chỉ toàn bộ hệ thống 6 thức của chúng ta. Thức nào trổi lên mạnh nhất thì lấy cái đó làm đối tượng để quán. Quán một thức trong 6 thức đang vận hành gọi là “Quán Tâm trên các Tâm”.

Quán hay Niệm ở đây bao gồm ý nghĩa là quán sáttuệ triTuệ tri là cái biết trong sáng khách quan. Còn tâm bị quan sát là trạng thái hiện hữu của tâm thức, là những phản ứng của tâm thí dụ như tâm thiện, tâm ác, tâm tham hay tâm sân...  gọi chung là tâm sở.

Quán tâm là ghi nhận, hay biết rõ những gì đang xảy ra nơi tâm, tức những hoạt động ở nơi tâm. Như vậy thiền Quán là nhìn sâu vào sự vật hiện tượng để thấy được hoạt động của nó, từ đâu có nó và bản chất của nó như thế nào.

Trong kinh Tứ Niệm Xứ hay Đại Niệm Xứđức Phật đưa ra 16 tâm để hành giả thực tập

1) Khi tâm có tham, hành giả tuệ tri tâm có tham. Tâm tham là khi tâm bị dính mắc hay ràng buộc với một ái dục nào đó, chẳng hạn như tài, sắc, danh, thực, thùy... Đây là tâm tham của người thế gian nhằm phục vụ riêng cho cá nhân cho bản ngã của mình. Cũng có loại tham của những vị đã bước vào dòng Thánh, đạt các quả vị: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Cái tham của những vị này là lòng mong muốn giúp mọi người tu tập đạt được quả vịthoát khổ giống như mình.  Về tâm tham, đức Phật dạy, khi tâm có tham thì tuệ tri tâm có tham.   

2) Tâm vô thamtuệ tri tâm vô thamQuán tâm vô tham nghĩa là khi tâm không tham, hành giả tuệ tri tâm không tham.

3) Tâm có sân, tuệ tri tâm có sân. Tâm sân là tâm buồn bực, bất như  ý, hờn giận thù ghét...  Quán tâm sân, là khi tâm có sân, tuệ tri tâm đang có sân.

4) Tâm không sân, tuệ tri tâm không sân. Quán tâm không sân là khi  tâm không sân, tuệ tri tâm không sân.

5) Tâm có si, tuệ tri tâm có si. Tâm si là tâm nghi ngờ giằng co, lưỡng lự, không dứt khoátgiữa hai vấn đề. Nói cách khác si giống như một màn che chắn khiến hành giả mê mankhông thấy biết một cách đúng đắn những gì đang hiện hữu trước mặt.

6) Tâm không si, tuệ tri tâm không si. Tâm không si, tuệ tri tâm không si.

7) Tâm thâu nhiếp, tuệ tri tâm thâu nhiếp. Tâm thâu nhiếp có hai ý. Ý thứ nhất là tập trung. Thí dụ như thâu nhiếp 6 căn không cho chạy theo 6 trần, hay tập trung tâm vào một đối tượng giúp tâm yên lặng, khi thực hành thiền định. Đây là thiện pháp. Còn ý thứ hai là tâm trạng dả dượi, mệt mỏi, chán chường ... là một hình thức của hôn trầm thụy miên, gọi là “tâm co rút”. Trong bối cảnh “quán tâm trên các tâm”, thì tâm co rút được hiểu là tâm mỏi mệt, lười biếng. Khi tâm mỏi mệt, buồn ngủ, lười biếng, thì tâm trí không còn tỉnh táo, không còn sáng suốt, mất chánh niệm không muốn tu tập quán chiếu gì cả, nên nó thuộc về ác pháp.

Khi “tâm co rút” đưa đến sự mất tỉnh giácđồng nghĩa với sự hay biết của tâm đang co rút giảm thiểu sự sáng suốt.

8) Tâm tán loạntuệ tri tâm tán loạn. Tâm tán loạn là phóng dật, thiếu sự tập trung, do suy nghĩ liên tục hết chuyện này sang chuyện khác, tức thân ở chỗ này mà tâm ở chỗ khác. Nó còn có nghĩa là tâm bất anQuán tâm tán loạn là khi tâm tán loạn, biết rằng tâm đang tán loạn.

9) Tâm quảng đạituệ tri tâm quảng đại. Tâm quảng đại là tâm rộng lớn, thông khoáng của các vị  tu thiền đạt được các tầng định như Sơ định, Nhị định, Tam địnhTứ định thì tâm mới đi đến chỗ quảng đại. Tâm quảng đại còn được hiểu là tâm từ, bi, hỷ, xả. Đức Phật dạy khi hành giả đạt được tâm quảng đại thì tuệ tri tâm quảng đại.

10) Tâm không quảng đạituệ tri tâm không quảng đại. Tâm không quảng đại là những tâm liên quan đến dục giới. Phật dạy tâm không quảng đại biết rằng tâm không quảng đại.  

11) Tâm hữu hạn, tuệ tri tâm hữu hạn. Tâm hữu hạn là tâm ở trong phạm vi cuộc sống của người thế gian. Khi tâm hữu hạn thì tuệ tri tâm hữu hạn.

12) Tâm vô thượng tuệ tri tâm vô thượng. Tâm vô thượng là tâm thoát ra khỏi tam giớidục giớisắc giớivô sắc giới, là tâm ở trạng thái cao nhất, như tâm của đức Phật khi chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Người bình thường không có tâm này. Đức Phật dạy vị nào tu tập chứng được tâm vô thượng thì tuệ tri tâm vô thượng.

13) Tâm có định, tuệ tri tâm có định. Tâm định là tâm yên lặng ở trạng thái cận định hay nhập định. Tâm có định thì tuệ tri tâm có định.

14) Tâm không định, tuệ tri tâm không định. Tâm không định thì tuệ tri tâm không định.

15) Tâm giải thoáttuệ tri tâm giải thoát. Tâm giải thoát là tâm thoát khỏi phiền não trong từng sát-na, hay trong thời gian ngắn, đó là tâm minh sát. Hoặc là tâm giải thoát từng phần của các bậc thánh tăng hay toàn phần của các vị A-la-hán. Phật dạy tâm giải thoáttuệ tri tâm giải thoát.

16)  Tâm không giải thoáttuệ tri tâm không giải thoátTâm không giải thoáttuệ tri tâm không giải thoát.

 

 V. THỰC HÀNH “QUÁN TÂM TRÊN CÁC TÂM” NHƯ THẾ NÀO?

Thiền Tuệ hay thiền Quán là thiền để thấy cho được bản chất của sự vật hiện tượng. Sự vật hiện tượng được hiểu là con người (thân-tâm) và cảnh vật bên ngoài. Tất cả sự vật hiện tượng  đều do duyên sinh. Vì duyên sinh nên vô thườngvô ngã. Do duyên sinh nên các sự vật hiện tượng thay đổi theo thời gian một cách khách quan không theo ý muốn của một ai. Vì không thuận theo ý muốn của mình nên mình khổ (dukkha).

Về vấn đề tu tậpthiền Tuệ không bắt buộc hành giả phải tọa thiền với tư thế bán già hay kiết già liên tục như thực hành thiền ĐịnhThực hành thiền Tuệhành giả có thể ngồi yên quán chiếu những gì xảy ra trên thân trên tâm, hay lúc đi, đứng, nằm, ngồi cũng có thể thực hànhthiền Tuệ, nếu hành giả giữ chánh niệm, tức ghi nhận những diễn biến nơi thân, nơi tâm bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu.

Điều cần nhớ là hoạt động của tâm như thế nào, rõ biết tâm như thế đó chứ không phải cố làm điều thiện, cố làm những gì tốt hơn tâm hiện tại. Vì khi có “thay đổi đối tượng” thì lúc ấybản ngã đã xuất hiện. Khi bản ngã xuất hiện thì sự quán sát của hành giả không còn trong sáng khách quan nữa.

Trong Kinh Tứ Niệm Xứđức Phật giới thiệu 16 loại tâm thức, để hành giả thực hành bài “Quán tâm”.  Bất cứ tư tưởnghình ảnh nào hiện hữu trong tâm, thì đó là đối tượng để tâmquán sát. Khi quán sáthành giả không đưa thêm tư kiến đúng sai, thiện ác, không bóp méo, bẻ cong uốn nắntư duy theo ý của mình, cũng không cố gắng giữ đối tượng thiện, xua đuỗi đối tượng ác... nghĩa là không có bản ngã xen vào trong lúc thực hành “Quán Tâm trên Tâm”. Tâm tham biết đó là tâm tham. Tâm sân biết đó là tâm sân. Tâm si biết đó là tâm si... Tâm như thế nào biết rõ, và khi nó chấm dứt lúc nào cũng biết rõ. Quán như thế để nhận ra tánh sanh-diệt, vô-thường - khổ - vô ngã của Danh-Sắc.

Khi trí tuệ nhận ra tất cả mọi thứ hiện hữu trong tâm có sanh có diệt, thì cũng nhận ra tất cả hiện tượng trên thế gian cũng tùy theo điều kiện mà có sanh có diệt, cho thấy tính vô thường-vô ngã của vạn vật. Người có tuệ giác sẽ không dại gì sống nương tựa chấp trước với những thứ không bền vững ở trên đời, mà chỉ an trú trong chánh niệm phát huy chánh trí hướng tới quả vị giải thoát Niết-bàn.

 

VI. RÚT RA BÀI HỌC

Tu thiền là tu tâmTu tâm có hai mặt. Một mặt là tập trung tâm vào một đối tượng nào đó để giúp tâm yên lặng, thoát khỏi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến... Đó là tu thiền Định. Còn một mặt khác là phát huy trí tuệ bằng cách quán sát mọi hành hoạt trên thân và tâm của chính mình để nhận ra tánh sanh-diệt, tánh vô thường-khổ-vô ngã của thân tâm, thì đó là tu thiềnTuệ, còn gọi là thiền Quán. Từ đó, hành giả không còn nương tựa hay chấp trước một thứ gì ở trên đời.

Ở phần đầu bài, chúng ta có đề cập đến tướng trạng của tâm con người. Rằng tâm con người có 2 tướng trạng, đó là Tướng thật chỉ cho Chân tâm và Tướng ảo chỉ cho Vọng tâm.

- Nếu chúng ta ở chỗ thật tướng của tâm, thì tâm đó có sự “tự biết” , “hay biết” bẩm sinh, mà không phải huân tậpsuy nghĩ, hay phân biệt. Cái tâm này, nó sâu lắng yên tịnhbất độngbất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnhbất tăng bất giảm, tức không có sự hiện diện của Tâm ba thời: Quá khứ (Ý căn), Hiện tại (Ý thức), Vị lai (Trí năng).

- Còn Ý cănÝ thứcTrí năng do cảnh trần mà hiện khởi, nên nó là tướng ngoài của tâm. Vì dính mắc với cảnh, nên nó luôn bị dao động. Nó thay đổi liên tục hết cảnh này sang cảnh khác, hết tư duy này đến tư duy khác, không đứng yên một chỗ nên trong giáo lý nhà Phật gọi nó là Vọng tâm. Vọng là không thật.

Như vậy khi tu tậpchúng ta trở về với cái tướng thật của tâm. Tướng thật của tâm chỉ thuần “là cái biết khách quan, trong sáng” nó không tác động thêm bớt vào sự hiện hữu, ngược lại cũng không ai làm chủ được nó. Vì thế người sống với tâm này sẽ không bị ràng buộc bởi những dục vọng phiền não của thế gian.

Trở lại 16 loại tâm, đức Phật dạy chúng ta thực hành quán chiếu trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Có ít nhất là 9 loại tâm rất phổ biến trong đời sống của chúng ta, đó là các tâm: Tham, Sân, Si, Vô thamVô sânVô si, Thâu nhiếp, Tán loạn, Hữu hạn. Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm này xuất hiệnchúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhậnquan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi!

Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giảđang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.

Tóm lạiQuán Tâm có nghĩa là chúng ta sống được với Cái Thật Tướng của mình. Chỗ đó trong kinh gọi là Chân tâmChân nhưBình đẳng tánh, Tự tánh hay Pháp giới tánh v.v... Một lần nữa, chúng ta cần ghi nhớ, mục đích tu tập pháp môn nào, đức Phật cũng đều dạy chúng ta hòa nhập với cái thực tướng của tâm.

Đến đây, chúng tôi tạm ngưng bài “Quán Tâm Trên Tâm”. Chúc quý vị hữu duyên, thực hànhbài tập “Quán Tâm” tới đâu thành tựu tới đó. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Sinh hoạt trên zoom ngày 03/11/2024 

với thiền sinh Thiền Tánh Không, Houston, Texas)

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 115)
Trong giáo lý của Đức Thế Tôn, nghiệp (kamma) là một trong những pháp vận hành căn bản chi phối sự tái sinhvà đời sống của chúng sanh trong luân hồi.
(View: 123)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(View: 206)
Con Tàu sầm sập lao trong màn đêm đen đặc, thỉnh thoảng vụt qua những thị trấn hay phố xá nhỏ ven đường le lói chút ánh sáng nhạt nhòa.
(View: 312)
Mùa An cư kiết hạ Phật lịch 2569 - Dương lịch 2025 lại trở về, là cơ hội quý báu để hàng hậu học chúng ta ôn lại lời Phật dạy
(View: 323)
Hầu như không có ai nghĩ xa hơn thế, nghĩ xa hơn cái chết. Đây là lý do tại sao chúng ta thiển cận và không nghĩ đến việc
(View: 551)
“Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Thiện duyên nan ngộ, Phật quốc nan sanh” là gì ?
(View: 569)
Thờ Phật không phải là cầu xin ban phúc hay tha tội, vì Ngài không phải thần linh mà là người thầy dạy cách thoát khỏi khổ đau mà chính ngài tìm kiếm, chứng nghiệm.
(View: 568)
Dòng đời xưa nay vẫn thế, từng đời từng đời nối tiếp nhau, thịnh suy bất định, tụ tán vô kỳ.
(View: 754)
Vesak theo truyền thống gắn liền với sự ra đời, giác ngộ và nhập Niết bàn của Đức Phật,
(View: 772)
Bồ Tát Đạo là con đường mà vị Bồ Tát phải đi qua. Đây là những giai đoạn mà một vị Bồ Tát kinh qua trên đường giác ngộ.
(View: 949)
Trong triết lý sống của ông cha ta, có một câu nói nghe qua tưởng nghịch lý nhưng lại ẩn chứa sự minh triết sâu sắc
(View: 1031)
Hiện nay đang ở vào thời mạt thế, xuất hiện nhiều tà sư hướng dẫn Phật tử vào con đường sai lạc. Điều này không phải bây giờ mới có.
(View: 1122)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(View: 1138)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(View: 930)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(View: 1138)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(View: 1240)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(View: 1166)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(View: 1200)
Phật tánh là chủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(View: 1396)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(View: 1334)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(View: 1321)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(View: 1245)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(View: 1068)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(View: 2012)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(View: 1087)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(View: 1025)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(View: 1712)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(View: 1666)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(View: 1445)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(View: 1894)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(View: 1816)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(View: 1191)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(View: 2073)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(View: 1650)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(View: 1142)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(View: 1780)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(View: 1194)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(View: 1963)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần.
(View: 1880)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(View: 1117)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(View: 1140)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
(View: 2422)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn
(View: 2082)
Sau thực phẩm, ngôn ngữ là nguồn nước của dòng chảy văn hóa trong đó văn là vẻ đẹp (văn vẻ), hóa là sự thay đổi.
(View: 1642)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế
(View: 2510)
Đức Phật đã từng xác định pháp tu Tứ Niệm Xứ là “Con đường độc nhất đưa đến: Thanh tịnh chúng sanh; Vượt khỏi sầu não;
(View: 2361)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(View: 2352)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(View: 2381)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM