Tài Nghệ “giảng Kinh Thuyết Pháp” Của Đại Sư Đế Nhàn
Thích Trung Nghĩa
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông. Đệ tử xuất gia của ngài có nhiều vị xuất cách như pháp sư Bảo Tĩnh, Đàm Hư v.v... Căn cứ Trung Quốc đại bách khoa toàn thư, ngài có hơn 10 vạn đệ tử cư sĩ tại gia.
Đế Nhàn sinh năm 1858, vốn dĩ tư chất thông tuệ, sau khi xuất gia thì siêng nghiên cứu kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, giáo quán Thiên Thai v.v... Ngài thọ cụ túc giới năm 24 tuổi, không lâu sau nhập thất tại Từ Khê Thánh Quả am với thời gian ba năm, công phu thiền định thâm sâu. Căn cứ Đế Nhàn pháp sư di tập (谛闲大师遗集) của pháp từ Đàm Hư biên soạn hiệu đính, đầu Bài tựa ghi “Đế công lão nhân, tự tu tập từng bế quan ba lần, chẳng khác tổ sưBồ-đề-đạt-ma diện bích”. Sau khi bế quan, theo nhu cầu của thính chúng, ngài hay giảng thuyết, thính chúng rất đông; có một ngày nọ, ngài lên pháp tòa giảng kinh Pháp Hoa, đến phẩm Thọ ký Xá-lợi-phất, bèn tịch nhiên nhập vào thiền định, im lìm chẳng nói một lời, lát sau xuất khỏi thiền định, biện tài vô ngại, diễn thuyết thao thao bất tuyệt như ghềnh thác chảy xiết. Kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu như Kinh Pháp Hoa, phẩm Pháp sư cập đến đại pháp sư, chỉ cho vị thầy tinh thông và truyền giảng Phật pháp lưu loát. Trong Tì-nại-da tạp sự quyển 13 chia ra có năm loại sư: Kinh sư, luật sư, luận sư, pháp sư (người giỏi giảng pháp), thiền sư; Đạo giáo cho rằng người tinh thông, nghiên cứu kinh văn Đạo giáo thì gọi là pháp sư; thầy mo trừ ma quái bùa chú cũng được gọi là pháp sư. Kinh A-di-đà nói “Các đức Phật lè lưỡi che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật, các ngươi nên tin kinh này......” cũng nhằm nói biện tài vô ngại bất khả tư nghị của các đức Phật. “Quảng trường thiệt” cũng là một trong ba mươi hai tướng tốt của đức Phật; mượn lấy ý nghĩa này, lần nọ nhà văn học Tô Đông Pha ngao du Lô Sơn, bất chợt lĩnh hội “nước suối cảnh núi” (khê thanh sơn sắc”, ngủ trong Đông Lâm khuya khoắt mà sáng tác bài Tặng Đông Lâm tổng trưởng giả (赠东林总长老) ngõ hầu hoài niệm và tán dương trưởng lão chùa Đông Lâm Huệ Viễn, trong đó hai câu đầu là:
“Tiếng suối chảy róc rách liên tục bên tai cũng như lưỡi của các đức Phật trong mười phương le ra, mây mù trên núi cũng là pháp thân thanh tịnh của đức Phật” (Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt, sơn sắc khải phi thanh tịnh thân 溪声尽是广长舌, 山色无非清浄身)[1]
Ngài và tổ sư Ấn Quang kết duyên liên hoa, hỗ trợ nhau hoằng dương chánh pháp, Ấn Quang trùng hưng Tịnh độ tông, Đế Nhàn hoằng truyền giáo quán Thiên Thai, Ấn tổ “Hoằng dương tịnh độ, mật hộ chư tông”, Đế công “Giáo diễn Thiên thai, hành quy tịnh độ”, đôi bên dùng thi từ xướng hợp tặng đáp lẫn nhau.
Ngài chú sớ trước thuật rất nhiều như Lăng Nghiêm kinh tự chỉ muội sớ, Niệm Phật tam muội bảo vương luận nghĩa thù, Đại thừa chỉ quán thuật ký v.v... Tông phái này có rất nhiều thuật ngữ đặc thù như nhất niệm tam thiên, tam đế viên dung nhất tâm tam quán, v.v. thực rasự hình thành học thuyết chỉ quán của Thiên Thai Trí Di được ảnh hưởng từ Đại thừa khởi tín luận,[2] trong Tu tập thiền tọa chỉ quán pháp yếu của Trí Di, lúc nói về tu tập chỉ quán, rõ ràng nêu lên cần phải lấy chánh niệm trong Khởi tín luận nói để khắc phục tâm bay nhảy. Thiên thai tông là một tông phái đặc sắc trên lịch sử Phật giáo Trung Quốc, ảnh hưởng trực tiếp từ hệ thống lý luận rộng lớn của các tông phái mà cấu kiện thành. Trong bản văn Thiên thai tông (天台宗) của nhà Phật học Lữ Trừng nổi tiếng, cho rằng khởi nguyên tư tưởngchính yếu của Thiên Thai tông là từ “Thuyết thực tướng và tư tưởng phán giáo của các tổ sư: Tuệ Tư, Trí Di”, thuyết “tánh cụ thực tướng ( 性具实相) là tư tưởng thành thục cuối cùngcủa Trí Di, lý luận trọng tâm của Thiên thai tông.
Ngài còn sáng lập Quán tông học xá, Quán tông liên xã, Phật học nghiên cứu xã, truyền giảng kinh Lăng Nghiêm, Bách pháp minh môn luận, Bát thức quy cũ tụng và các bộ luận của Thiên Thai tông như Quán kinh sớ sao của Trí Di, Thiên Thai tứ giáo nghi chú quán của Thích Đế Quán thời Tống v.v... tại Kim Lăng khắc xứ kinh v.v... Ngài tuân thừa di chí của tứ tổ Thiên Thai tông Tri Lễ, lập chí không phục tổ đình, tàng kinh các, niệm Phật đường lấy tam quán làm tông, thuyết pháp làm dụng, đổi Quán tông tự thành Quán tông giảng tự, thời gian sau chùa này thành chùa cổ nổi tiếng ở khu vực Đông Nam.
Ngài viên tịch năm 1932, tự tại mĩm cười vãng sanh. Trong Cảnh trần hồi ức lục của pháp sưĐàm hư mô tả cụ thể về việc này, trưa ngày 2 tháng 7, Đế công chợt hướng về phía Tây chắp tay, trầm mặc rất lâu rồi nói: “Phật đến tiếp dẫn”. Thị giả dùng nước có chứa các hương hoa lau y phục ngài, ngài kế đó viết bài kệ: “Ta từng niệm Phật, tịnh độ trước mặt, chân thật thọ dụng, xin các người siêng” , viết xong, còn dạy Tăng chúng tập trung lên chánh điện niệm Phật, để nghinh đón Tây phương Tam thánh giáng lâm, ngài ngồi kiết già theo tiếng niệm Phật mà chết. Sau khi chết, nét mặt sắc vàng, xương cốt khiết tịnh, trên đỉnh đầu hơi âm như lửa, lâu vẫn không tan. Nhà triết học Tương Duy Kiều cũng là đệ tử năm giớicủa ngài, từng làm bài điếu văn:
“Thuyết pháp bốn mươi tám năm, giáo quán viên dung, mô phạm rủ khắp cõi trời và cõi người, thị tịch ngày ba tháng bảy, đoan nghiêm an tường mà qua đời, vô biên cõi nước hiện trang nghiêm”.
Trong Ấn Quang pháp sư văn sao tam biên ghi, Ấn Quang khen ngài là bậc “Chân tu thực chứng, cũng là đảm nhậm đại chấn hưng nhị tông: Thiên thai tông, Mật tông”. Trong Tăng quảng Ấn Quang pháp sư văn sao, Bài tựa ghi: “Đại sư Đế Nhàn bốn mươi năm sau này, phụng lời chân thực của đức Thích Tôn, tuân bi nguyện của đại sư Trí Giả, cho nên tự tu hành mà kiêm đem đến lợi ích cho người, chỗ quy kết cũng không ngoài một câu A-di-đà Phật, tín, nguyện vãng sanh mà thôi”.
- Tag :
- Thích Trung Nghĩa