Khái Quát “Duy Thức Tam Thập Tụng”
Trưởng Lão Thích Duy Hiền
Thích Trung Nghĩa dịch
I. DUYÊN KHỞI BẢN LUẬN
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnh và yếu chỉ của duy thức học. Luận này gắn liền việc soạn viết của bồ-tát Thế Thânlúc tuổi già, nhưng chưa tiến hành chú giải thì bồ-tát sớm đã viên tịch.
Thế Thân là người sau Phật niết-bàn 900 năm. Ngài đản sanh tại đô thị Bố-lộ-sa-bố-la nước Kiền đà-la miền bắc Ấn Độ. Ảnh hưởng danh tiếng của bồ-tát Phiệt-tô-bàn-độ (phiên dịch là Thiên Thân hoặc Thế Thân) rất tốt trong giới Phật giáo. Ngài ban đầu xuất gia ở Tát-ba-đa bộ thuộc Tiểu thừa, học vấn uyên bác, kiến thức phong phú, xem qua sơ lược rồi nghiên cứu sâu về Tam tạng của Nhất thiết hữu bộ, Kinh lượng bộ thuộc Tiểu thừa triệt để, soạn Câu-xá luận 20 quyển, thế gian gọi là Thông minh luận (聰明論), phân tích pháp tướng thành 75 pháp. Nhưng với như thế, ngài vẫn không hài lòng, sau đến bắc Ấn Độ tiếp tục học tập Đại Tì-bà-sa luận, không hài lòng đối với luận này, tiến hành phê bình, sư phụ khuyên răn: Người không chứng ngộ mà phỉ báng Phật pháp, là bất lợi đối với chính mình. Sau ngài về đến bổn quốc, phỉ báng Đại thừa phi Phật thuyết, anh của ngài là A-tăng-già (phiên dịch là Vô Trước) cảm thấy ưu tư hành vi của ngài, khai đạo ngài học tập Đại thừa, nên sai phái mọi người tụng phẩm Thập địa trong kinh Hoa Nghiêm và phẩm Nhiếp Đại thừa trong kinh A-tì-đạt-ma, cấp cho ngài nghe được. Sau khi nghe ngài rất xấu hổ, hối hận kiến giải của mình từ trước đến nay không sâu, đã phỉ bángĐại thừa, thỉnh cầu cắt đứt lưỡi mình. Vô Trước khuyến cáo, đừng cắt đứt lưỡi, trước đây em tạo nghiệp phỉ báng Đại thừa, nay em có thể đem sự phỉ báng ấy mà hoằng dương Đại thừa sẽ xây dựng công huân, để lấp diệt phạm tội trước đây, chẳng phải sám hối tội ác dĩ vãng hay sao? Sau này ngài nghiên cứu sâu về Đại thừa, hoằng dương tinh thần Đại thừa, soạn viết rất nhiều sách, nhân gian tôn xưng là Thiên bộ luận chủ. Trong trước tác vĩ đại mà tinh thâm của cuộc đời ngài, là bộ Duy thức tam thập tụng (唯識三十頌) siêu xuất lúc tuổi già, tổng cộng 360 câu văn, gọi là “Vạn giáo chứa ở một chữ, ước ngàn huấn ở một lời”, nhưng vì tuổi cao, không lâu sau thì viên tịch, lúc đó 80 tuổi, nên chẳng tiến hành chú giải.
Sau này có mười đại Luận sư trước sau hợp tác chú giải luận này. Mười đại luận sư là: 1, Đạt-ma-ba-la, phiên dịch là Hộ Pháp. 2, Khương-chưởng-mạt-để, phiên dịch là Đức. 3, Tất-chỉ-mạt-để, phiên dịch là An. 4, Bạn-đồ-thất-lợi, phiên dịch là Thân Thắng. 5, Nan-đà, phiên dịch là Hoan Hỷ. 6, Tuất-đà-chiến-đạt-la, phiên dịch là Tịnh Nguyệt. 7, Chất-tra-la-ba-na, phiên dịch là Hỏa Biện. 8, Tì-thế-sa-mật-đa-la, phiên dịch là Thắng Hữu. 9, Nhược-na-phất-đa-la, phiên dịch là Thắng Hưng. 10, Nhược-na-chiến-đạt-la, phiên dịch là Trí Nguyệt.
Việc đến Ấn Độ của cao tăng thời Đường đại pháp sư Huyền Trang để nghiên cứu thám cầu học vấn, y chỉ phương trượng chùa Na-lan-đà thuộc miền trung Thiên Trúc luận sư Giới hiềnđể học tập, học tập phạm vi rộng, có Đại thừa và Tiểu thừa, triết học Ấn Độ v.v... nhưng lấy Du-gia hành duy thức học phái làm chính. Sau học tập xong thì trở về nước, tại thành đô Trường An, ban ngày dịch kinh, ban đêm giảng thuật và truyền bá lý luận học thuật của mình, lấy duy thức pháp tướng làm chính, căn cứ giải thích của mười đại Luận sư, mà nội dung rất phong phú. Huyền Trang là vị khai tổ Pháp tướng tông ở Trung Quốc, tiếp nhận sự thỉnh cầu của đệ tử Khuy Cơ, đem lời của mười đại Luận sư, văn tự trong trăm quyển, lấy văn tự giải thích của bồ-tát Hộ Pháp làm chính, tổng hợp thành Thành duy thức luận 10 quyển. Pháp sư Khuy Cơ căn cứ Thành duy thức luận, rồi chế tác Thành duy thức luận thuật ký; đệ tử của Khuy Cơ là Tuệ Chiểu, soạn Thành duy thức luận liễu nghĩa đăng. đệ tử của Tuệ Chiểu là Trí Chu, còn soạn Thành duy thức luận diễn mật gộp lại gọi là Duy thức tam đại bộ (唯識叁大部). Khi nghiên cứu Thành duy thức luận, cần đọc tam đại bộ này.
Động cơ của Thế Thân chế tác luận này, không ngoài vì “Làm cho chánh pháp trụ vĩnh cửu, lợi lạc các hữu tình chúng sanh”. Lúc bấy giờ, giữa giáo đồ Ấn Độ và phi giáo đồ, những học giả này mỗi người phát biểu ý kiến phong phú của mình, cố chấp kiến giải bất chánh mà khởi lên rầm rộ, còn nghĩa lý tinh yếu học thuyết duy thức thì ngược lại ẩn tàng chẳng sáng soi ở nhân gian. Thế Thân vì phá gãy cố chấp kiến giải bất chánh, nhằm xưng dương, biểu dương chánh giáo do đó sáng tác luận này.
Mọi người có thể thấy được trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, đại khái sau Phật diệt độ với thời gian 100 năm, lúc đó tình thế ổn định, đơn thuần an trụ không lý và vật vô tranh. Đến sau Phật diệt độ 160 năm, phát sinh tranh luận về “Năm quan điểm dư tập và cơ duyên chứng đạo liên quan của a-la-hán” (五事) của tỉ-khưu Đại Thiên (Tham khảo lịch sử Phật giáo Ấn Độ), thế là Tiểu thừa phân liệt 20 bộ phái, chủ trương giáo nghĩa cho riêng phần mình. Đến sau Phật diệt độ khoảng 300 năm, có tăng lữ Ca-chiên-diên-ni-tử sinh ở thế gian, chế tác Phát trí luận; thời gian này, còn có luận sư Pháp Cứu, Pháp Hữu v.v... sinh ở thế gian, thế rồi ngã không pháp hữu trong Tiểu thừa lại rất lưu hành một thời gian, cũng như cây cỏ theo gió mà lay, người trong giới truyền giáo, đa phần đều nãy sinh hào hứng chấp kiến chư phápthực hữu, Đại thừa dường như chìm tối chẳng ai biết. Đến sau Phật diệt độ khoảng 700 năm, có bồ-tát Long Thọ sinh ở thế gian, chế tác Trung luận, Thập nhị môn luận v.v... Và lúc này, bài xích chấp chư pháp thực hữu, tuyên dương tôn chỉ rốt cuộc đều không. Lúc bấy giờ, trong giới Phật giáo Ấn Đô sản sinh hai đại trào lưu tư tưởng với thế lực ảnh hưởng tương đối lớn trong một thời kỳ: chẳng chấp ở không nhưng chấp ở hữu. Đến sau Phật diệt độ khoảng 900 năm, từ khi Vô Trước, Thế Thân sinh ở thế gian, tuyên dương rộng tôn chỉ duy thức trung đạo (唯識中道), dọn sạch tà kiến chấp không, chấp hữu triệt để. Nên động lựccủa luận này cũng là phá chấp hiển lý (破執顯理).
II. Ý NGHĨA QUAN TRỌNG TRONG BẢN TỤNG
(1) Thức biến
Pháp tướng và duy thức là bất khả phân ly. Đại sư Thái Hư nói: “Pháp tướng tất nhiên tôn chỉ duy thức, duy thức tất nhiên nhiếp pháp tướng”. Pháp tướng là các loại vật chất và tinh thần, vạn pháp chẳng rời khỏi tâm thức sở nhiếp. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Cần quan sát pháp giới tánh, tất cả cảnh giới đều là duy tâm sở tạo ra”, “Tâm người như họa sĩ, có thể họa ra tất cả cảnh giới thế gian”. Kinh Tâm Địa Quán nói: “Tâm sinh ra thì pháp sinh ra, tâm tiêu diệt thì pháp tiêu diệt, tâm ô nhiễm thì cõi nước ô nhiễm, tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh”. Những đoạn kinh này thuyết minh một hiện tượng, cũng như vạn pháp tùy theo tâm mà sinh diệt, tác dụng của tâm lớn. Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, tâm có thể cải tạo thế gian, tâm có chủ quan năng động tính (主觀能動性). Chuyển biến của tâm thể có thể làm cho mọi hiện tượng chuyển biến, trong đó bao hàm luân chuyển của chúng sanh, sanh tử tương tục, chánh báo, y báo, xây dựng thân căn, khí giới. Chuyển biến này đều là thức thể chuyển biếnmà có.
Trong nhất thiết pháp thế gian, xuất thế gian, vì sao ô nhiễm? Vì sao thanh tịnh? Làm thế nào để chuyển ô nhiễm thành thanh tịnh? Chuyển thức thành trí? Cụ thể bao gồm tam tính, tam vô tính, pháp tướng thế gian, xuất thế gian khu biệt. Đồng thời căn cứ tam tính để giải thích vì sao hữu? Vì sao không? Duy thức chính hiển lý phi không, phi hữu, cũng là ý nghĩatrung đạo. Quan sát kĩ nhất thiết chư pháp vô nhất pháp nghiêng về hữu, vô nhất pháp nghiêng về không, đều là có sẵn đủ đạo lý trung đạo tinh vi. Tâm là thể của năng biến, chia làm ba loại: (1) Dị thục năng biến, chỉ cho đệ bát thức. (2) Tư lương năng biến, chỉ cho đệ thất thức. (3) Phân biệt năng biến, chỉ cho tiền lục thức. Biến còn chia ra hai loại, đó là nhân năng biến và quả năng biến. Nhân năng biến đại khái chỉ cho: Do chủng tử trong tâm thứccon người mà hình thành chư pháp hiện hành (種子生現行), hành vi của chúng ta hiện nay có thể biến đổi chủng tử hàm tàng trong quần thể Như Lai tạng (現行熏種子). Quả năng biếnlà chỉ cho lúc thức thể sanh ra, kiến phần và tướng phần lại biến khởi. Trước là bản chất và hiện tượng vũ trụ, chúng sanh giới liên quan. Sau là tác dụng của năng duyên và sở duyêntâm thức nhận thức ngoại cảnh, cấu thành thể thống nhất duy thức học tâm vật bất khả phân ly, chứng minh vật bất ly tâm, cảnh bất ly thức. Như chánh văn giải thích kĩ, dựa thức biếnmà biểu giải.
(2) Tam tánh
Tam tánh là: Biến kế chấp tánh, y tha khởi tánh, viên thành thật tánh.
1. Biến kế chấp tánh là gì? Biến kế ý nghĩa là chu biến kế độ, vọng chấp đối tượng sở duyên, với “Lúc nội tâm chúng ta tiếp xúc theo ngoại cảnh, sẽ sản sinh một nhân duyên giả tướng” (因緣所生法), chỉ thấy được ảnh tướng hư vọng trong ý thức chủ quan hiện tại trôi nổi, chẳng thấy được chân tướng vốn có của nó. Nếu không hiểu loại ảnh tướng ấy là duy thức sở biến, còn chấp là tâm ngoại thực hữu, sinh ra các loại thực ngã, thực pháp sai biệt. Trong khi tâm chúng ta duyên cảnh, với giữa năng duyên và sở duyên, sản sinh một loại thực hữu ngã pháp vọng cảnh. Các loại ngã pháp vọng kế, rốt cuộc chẳng qua là hiện ra từ chấp tướng chủ quan mê tình, thế nên, luận này nói: “Biến kế sở chấp, tự tánh đều vô sởhữu” (此遍計所執, 自性無所有). Biến kế sở chấp tánh chỉ ở trong tình cảm dục vọng của người phàm phu mới có, trong chân lý chẳng có, “Tình hữu lý vô”,[1]như rùa chẳng có lông, thỏ chẳng có sừng, là pháp của thể tánh đều vô.
2. Y tha khởi tánh: Y là dựa vào. Tha là nhiều duyên. Khởi là sanh khởi. Nhất thiết hữu vi pháp đều là dựa nhiều duyên mà sanh khởi. Gọi là tứ duyên sanh chư pháp, là nhân duyên, tăng thượng duyên, sở duyên duyên, đẳng vô gián duyên. Tâm sở pháp dựa tứ duyên mà sanh khởi. Sắc pháp dựa nhị duyên (nhân duyên, tăng thượng duyên) mà sanh khởi. Nên trong bách pháp, từ duyên sở sanh tâm pháp (tác dụng của tinh thần), tâm sở pháp (tác dụng của tâm lý), sắc pháp (vật chất) v.v... đều dựa nhiều duyên mà sanh, giả hữu mà vô tự tánh. Điều này và tư tưởng “duyên khởi tánh không” trung quán là nhất chí. Dù dựa nhân duyên hòa hợp mà tồn tại, nhưng phi thực hữu cố định, nên luận này nói: “Y tha khởi tự tánh, phân biệt sở duyên sanh”. Y tha khởi tánh chẳng phải trong vọng tưởng mê tình, cũng là nói biến kế sở chấp tánh dựa danh sanh ý nghĩa mà khởi, cho nên có. Vì vậy, có thể chứng minh mọi sự vật đều là nhân duyên sở sanh, cũng là ‘giả’ pháp vô tự tánh.
3. Viên thành thật tánh: Viên là viên mãn. Thành là thành tựu. Thật là chân thật. Tức là sau khi vứt bỏ vọng tình chấp trước mà sở chứng đắc pháp tánh chân như, hoặc là thể tánh của sự vật chân thực. Cũng là chư pháp chân như, thể bất sanh bất diệt, bất biến bất dịch, là thể tánh y tha khởi pháp, rồi viễn ly biến kế sở chấp thực ngã, thực pháp, nên luận này nói: “Viên thành thật ở trong y tha khởi tánh, thường viễn ly tánh chấp sở hiển trước đây”. Theo đoạn luận trên có thể thấy, chân như tánh là tuyệt đối, nó khác ở biến kế sở chấp hữu tình lý vô, cũng khác ở biến kế sở chấp như huyễn giả hữu, mà là trung đạo thực tướng “lý hữu tình vô”, nhị không: ngã không, pháp không sở hiện chân thật.
(3) Tam vô tánh
Về đạo lý tam tánh, như đứng từ một giác độ khác để giải thích cũng là tam vô tánh. Tam tánh cũng là nói: biến kế chấp tánh, y tha khởi tánh, viên thành thật tánh, đó là từ mặt hữu mà giải thích trạng thái vạn pháp. Mà tướng vô tánh, sanh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh cũng là từ mặt không để thuyên hiển trạng thái chư pháp. Thành duy thức luận giải thích ghi: “Dựa vào này trước nói tam tánh, anh lập kia sau nói ba loại vô tánh, nên tôn chỉ thâm áo khó biết của đức Phật nói: nhất thiết pháp đều vô tự tánh. Ban đầu dựa vào này sơ biến kế sở chấpmà an lập tướng vô tánh, kế đó vô như vọng chấp tự nhiên tánh, cuối cùng viễn ly do biến kế sở chấp ngã trước, pháp tánh”. Do đó tam vô tánh là giải thích về chân thực thể tánh của tam tự tánh.
1. Tướng vô tánh: Là nói về biến kế sở chấp tự tánh. Tướng ý nghĩa là thể tướng. Vô tánhlà vô tự tánh. Biến kế sở chấp tánh chẳng qua là sở chấp vọng tướng trong mê tình, như bệnh mắt thấy hoa đốm hư không, nhưng thực thể vô. Vì sao nói tự tánh biến kế sở chấpthực thể vô? Bởi vì loại tự tánh này hoàn toàn là vọng tưởng an lập, mà lại căn bản chẳng có “tự tánh” khả đắc gì, nên gọi tướng vô tự tánh.
2. Sanh vô tánh: Là giải thích về y tha khởi tự tánh. Vì sao nói y tha khởi tánh là sanh vô tự tánh tánh? Bởi vì y tha khởi tự tánh do nhiều duyên sanh ra hữu vi pháp, là có sanh có diệt. Sự sanh ra của nó là dựa nhân cậy duyên mà sanh, mà chẳng phải phát triển tự do, tất nhiên như thế để sanh ra, nên nói vô tánh. Nói nó vô tự tánh, song song không phủ nhận vạn pháp y tha khởi đều chẳng có, nên nói y tha khởi tự tánh chỉ có duyên sanh tánh mà chẳng có tự nhiên sanh tánh (ý nghĩa tự nhiên sanh tánh là chẳng chờ nhiều duyên, tự nhiênmà có, cố định, bất biến). Chính vì mọi sự vật là y tha mà khởi lên, chẳng phải vô nhân mà sanh ra, nên gọi là vô sanh tự tánh tánh (生無自性性.)
3. Thắng nghĩa vô tánh: Là giải thích về viên thành thật tự tánh. Viên thành thật tự tánh là viễn ly cảnh giới vọng kế sở chấp ngã pháp trong y tha khởi mà tịnh trí sở duyên, là thực thểcủa nhất thiết pháp, nên gọi là thắng nghĩa. Viên thành thật tự tánh lại là dựa hiển thị và an lập chư pháp vô tự tánh, nên gọi là vô tự tánh tánh (無自性性). Tự thân viên thành thật tự tánh cũng là thắng nghĩa nhị vô ngã: nhân vô ngã, pháp vô ngã trí sở duyên chư pháp, nên gọi là thắng nghĩa vô tánh.
Nhìn chung, tam tánh cũng là nói về năng tri và sở tri, bản chất của tam tánh. Đức Phật nói tam tánh, không ngoài việc nói nhất thiết pháp đều vô tự tánh, cũng là vì muốn bài trừ chấp trước về chư pháp thực hữu, từ đó mà ngộ nhập đạo lý tinh thâm vi diệu chư pháp duyên khởi tánh. Tam vô tánh là dựa tam tánh mà an lập. Thể của tam vô tánh chẳng lìa tam tánh. Thể của tam tánh tự thân có ý nghĩa tam vô tánh. Gọi hữu, là hữu của không, không là không của hữu, hữu chẳng lìa không, không chẳng lìa hữu. Hữu và không là quan sát hai mặt của vạn pháp trong vũ trụ, phi chỉ có hữu, phi chỉ có không. Từ trong tam tánh mà nói về hũu, chẳng coi trọng tự tánh hữu. Từ trong tam tánh mà nói về không, đồng thời phi hoàn toàn không vô. Nói về hữu, không hoặc là phi hữu, phi không, chỉ là vì ngăn chận biên kiến, chấp trước để thuyên hiển đạo lý tinh thâm vi diệu trung đạo cho nên thi thiết phương tiện. Nghiêng về không, hữu, chấp trước nhất biên nào đó, thực nghĩa trung đạo cũng chẳng có đầu mối thể hiện. Cũng không, hữu cũng là chỉ đạo của trung đạo.
(4) Duy thức quán
Lý luận trong duy thức, còn kết hợp tu trì, như văn, tư, tu và tam học: giới học, định học, tuệ học, cốt yếu đều chẳng rời khỏi chỉ quán. Chỉ quán trong các tông phái đều có chỗ khác nhau. Duy thức học lấy ngũ trùng duy thức để giải thích chỉ quán trong duy thức.
Thứ nhất trùng khiển hư tồn thực thức, tức là khiển biến kế sở chấp hư vọng kế độ, mà tồn tại thực thể y tha khởi tánh và viên thành thật tánh — hư và thực đối lập lẫn nhau.
Thứ hai trùng xả lạm lưu thuần thức, tức là dứt bỏ tạp loạn của ngoại cảnh, mà tồn lưu thực thuần túy, bỏ tướng phần, tồn tại tượng phàn, chứng tự chứng phần — tâm và cảnh đối lậplẫn nhau.
Thứ ba trùng nhiếp mạt quy bản thức, là từ trong tác dụng chi mạt của nhị phần: kiến phần, tướng phần, nhiếp quy bản thể tự chứng phần — thể và dụng đối lập lẫn nhau
Thứ tư trùng ẩn liệt hiển thắng thức, là ẩn tàng tâm sở thua, hiện bày tâm vương hơn — tâm sở, tâm vương đối lập lẫn nhau.
Thứ năm trùng khiển tướng chứng tánh thức, là giải bỏ sự tướng sai biệt, chứng lý tánh vô sai biệt, cũng có thể nói giải bỏ mọi pháp tướng, chứng mọi pháp tánh — sự lý đối lập lẫn nhau.
Hoặc là nói phóng thích y tha khởi, để chứng viên thành thật. Ngũ trùng thức quán, từ rộng đến hẹp, từ cạn đến sâu, từ thô đến tế, vì giải bỏ tướng mà chứng tự tánh là cứu cánh.
(5) Hành và quả trong duy thức
Sự tu hành của bồ-tát cần trải qua tam đại a tăng kỳ kiếp, căn cứ trong kinh Hoa Nghiêm nói: Ngũ thập nhị vị, thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác, diệu giác, nhằm thuyết minh trải qua duy thức từ hành đến quả.
Cụ thể thì chuyển thức thành trí, cần trải qua tư lương vị hành thiện tích đức phước đức và trí tuệ, sản sinh gia hành vị thắng định, dẫn phát kiến đạo vị nhị không trí, dứt trừ phiền não, nhị chướng: sở tri chướng, phiền não chướng hiện hành và thập địa vị chủng tử, bước vào kim cang đạo, từ đẳng giác đến diệu giác, mới chứng niết-bàn, bồ-đề, thành tựu tam thân, tứ trí diệu quả Phật-đà, như chánh luận giải thích rõ.
III. TÍNH TRỌNG YẾU TRONG DUY THỨC HỌC
(1) Mục đích của tu Phật là cần tu tập, do đó yêu cầu tỏ rõ một đạo lý — nhân quả duyên khởi, cũng cần phục trừ phiền não trong tâm, nếu không thì không khả năng tu tâm. Nhân quả duyên khởi (因果緣起) là tư tưởng trung tâm điểm của Phật giáo, bất luận Đại thừa hay Tiểu thừa, bao hàm các tông phái ở Trung Quốc đều cùng tuân thủ theo pháp thức, tiêu chuẩn. Chẳng tin nhân quả thì chẳng hiểu biết tâm để tu hành. Chỗ giữa Phật giáo và tôn giáo khác khác nhau, cũng là trong đạo lý nhân duyên, phát sinh của sự vật cần có duyên của nó mới có thể có quả (hiện tượng) của nó, nhân quả duyên khởi đều chẳng rời khỏi tâm thức. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Cần quán sát bản tánh của pháp giới, tất cả đều do tâm tạo ra”. Duy thức học có lý luận tinh mật, cảnh, hành, quả (境行果) trong duy thức học đã xuyên suốt giáo lý hành quả trong Phật pháp.
(2) Duy thức học và khoa học hiện đại rất thích ứng. Khoa học chú trọng bốn loại phương pháp: phân tích, quy nạp, duy lý, thực nghiệm. Duy thức học rất có tính logic, tính lý luận. Lý luận trong duy thức cũng xây dựng trên nền tảng nhân minh, nên rất thích ứng căn cơ của người hiện đại. Hoằng dương duy thức, sớm có pháp sư Huyền Trang, ngài rất có nghiên cứu đối với nhân minh Ấn Độ. Mười đại Luận sư dùng nhân minh rồi xây dựng lý duy thức. Nhà khoa học Trung Quốc Tiền Học Sâm lúc phân tích tám đại tri thức thế giới, đề cập đến tư duy khoa học và nhân thể khoa học, đầu tiên ông nói: “Tư duy nó giống như sự vật, là một loại vật chất chuyển động, hoặc là vật chất hiển lộ chuyển động”. Phân tích trong tư duykhoa học có bốn loại: hình tượng, logic, linh cảm, sáng tạo. Muốn tinh thần nhân loại rộng lớn có giá trị, cần có tư duy tinh mật. Trong duy thức học, đệ lục ý thức lấy tư duy làm chủ thể. Nếu nghiên cứu sâu, phân tích một cách minh xác trong duy thức học, lĩnh ngộ được nghĩa lý duy thức, tư duy học có thể có được chiều hướng phát triển giai đoạn sâu hơn. Với khí công, thì ở trình độ nào đó, xuất hiện công năng đặc dị gì đó mà khoa học không thể hồi đáp; duy thức học có thể giải quyết những vấn đề này. Nhìn từ Phật giáo để thấy khí công, công năng đặc dị cũng chẳng lạ lùng. Khí công là một loại điều thân, điều tâm, điều hơi thởtrong chỉ quán. Có thể thân thể, tâm thức điều hòa, hơi thở tốt, có thể tăng thêm tuổi thọ, tăng cường sức khỏe cho thân thể, phát triển đại não trí tuệ. Sau khi tu tập chỉ quán thành, trước hết từ trì giới sinh ra thiền định, từ thiền định phát ra trí tuệ, từ trí tuệ phát thông. Trong duy thức pháp tướng, nhấn mạnh bát thức chuyển biến, chủng tử chuyển làm hiện hành, hiện hành lại huân thành chủng tử, chủng tử hiện huân sanh, rồi phát huy công năng tiềm tại của tâm thức, đó là năng lực của nhân thể cố hữu.
(3) Duy thức học và hành vi thức tế có thể kết hợp, đầu tiên là nội tâm “tịnh hóa và giải thoát”, yêu cầu phát đại bi nguyện để cứu độ chúng sanh, cõi nước trang nghiêm, làm lợi íchcho chúng sanh hữu tình mà khiến cho được an lạc, thực hiện tịnh độ nhân gian. Dùng tinh thần tịnh độ nhân gian để đóng góp lưỡng văn minh: văn minh vật chất và văn minh tinh thầntrong xã hội chủ nghĩa, hoằng pháp lợi sanh, kế thừa tuệ mạng Phật.
IV. CHỈNH SỬA VÀI LOẠI NHẬN THỨC SAI LẦM ĐỐI VỚI DUY THỨC
(1) Không thể đem duy thức và duy tâm luận thông thường trộn lẫn chung. Duy tâm luậnchia hai loại: chủ quan, khách quan. Duy tâm luận chủ quan cho rằng vũ trụ vạn hữu đều do chủ quan của con người quyết định. Duy tâm luận khách quan cho rằng trong khách quan, có một Thần sáng thế chi phối, khống chế, nắm chắc thế giới, đều hơi huyền hư. Như “Lý niệm thế giới” (理念世界) của Plato cổ Hy Lạp, “Tuyệt đối tinh thần” (絕對精神) của Hegel nước Đức, huyền học của Trung Quốc cổ đại, đều đàm luận sự lý thâm áo vi diệu. Có những người nãy sinh hiểu sai về duy thức, đem duy thức và duy tâm luận thế gian trộn chung. Phật pháp nói thực tế, chú trọng khuyên tu hành, thủ trì giới luật, điểm này và tôn giáo khác khác nhau. Lý luận trong Phật giáo, là xây dựng trên tam lượng, tức là hiện lượng, tỉ lượng, thánh ngôn lượng. (1) Hiện lượng: là nhận thức ngoại cảnh và không phủ định đối với hiện chứng hiện tri. Như lúc tiền ngũ thức liễu biệt lục trần: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần, pháp trần sát-na đầu, và duyên cảnh trong định, chánh trí khế chân như, đệ bát thức sở duyên cảnh giới đều gọi là hiện lượng. (2) Tỉ lượng: là tiến hành suy luận. Như nhìn xa thấy khói liền biết nơi đó có lửa, nghe được âm thanh vách đá có tiếng nói, bèn biết có người trong đó, cùng từ nhân biết quả. (3) Thánh ngôn lượng, còn gọi là thánh giáo lượng, rất tin, chẳng chút nghi ngờ đối với giáo pháp của đức Phật thuyết, tin sâu nhân quả, công đức của Tam bảo, căn cứ ngôn ngữ giáo thị của thánh nhân mới nhận thức chân lý.
“Tâm vốn bất sanh bất diệt nhưng vì chấp đến cảnh giới nên có tâm sanh diệt, nếu trước mặt chẳng có cảnh giới thì tâm cũng chẳng có” (心本無生因境有, 前境若無心亦無). Duy thức học không phủ định tồn tại của vạn pháp, vậy sao có thể cùng duy tâm luận thông thường hỗn hợp thành nhất thể?
(2) Phật giáo nói về duy thức, cũng không phải nói a-lại-da thức có thể chi phối, khống chế, nắm tất cả, giống phạm thiên, như thượng đế. Phật giáo nói đó là duyên sanh pháp, chư pháp sanh khởi chẳng rời nhân duyên, phi thường, phi đoạn. Chúng sanh lưu chuyển đều do nhân duyên. Nhân duyên đôi lúc biến đổi trong thời gian và không gian. Chuyển động của căn bản thức và tiền thất chuyển thức đều do từ các loại điều kiện, cũng chẳng phải có ngã thể thường hằng bất biến.
(3) Nói về duy thức cũng chẳng phủ định tâm thức và tình cảnh xứ sở của chúng sanh tồn tại. Mỗi người có hoàn cảnh đặc hữu, đặc biệt. Nhân nghiệp lực chánh báo và ý báo lại có khác nhau, nhưng có hỗ tương y tồn quan hệ. Núi và sông, đất đai, bối cảnh xã hội, nhân loại cộng hữu, cũng là cộng nghiệp sở cảm của chúng ta.
(4) Tu tập duy thức quán không dừng lại ở tham thiền đả tọa, tu giải thoát hạnh, mà cần phát bi nguyện cứu độ chúng sanh. Du-già sư địa luận của bồ-tát Di-lặc sở thuật, trong đó đề cập đến lục độ, tứ nhiếp, học tập ngũ minh của bồ-tát hạnh và không rời khỏi xã hội. Vì vậy học Phật cần dùng tinh thần xuất thế gian để biện nhập sự nghiệp thế gian, ghánh vác gia nghiệp Như Lai, hoằng pháp lợi sanh.
Trích tác phẩm Duy thức trát ký