Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tâm Như Hư Không, Không Sanh, Trụ, Diệt

Thursday, February 13, 202518:50(View: 617)
Tâm Như Hư Không, Không Sanh, Trụ, Diệt

Tâm Như Hư Không, Không Sanh, Trụ, Diệt

Nguyễn Thế Đăng


hinhphat43 


Chúng ta
 kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu đối tượng của sáu giác quan này là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Và sáu thức nối kết và vận hành giữa hai bộ sáu cái này là sáu thức của sáu giác quan.

Sáu căn (sáu giác quan), sáu trần (đối tượng của giác quan), và sáu thức, tất cả tương tác, nương dựa lẫn nhau tạo thành mười tám giới (khu vực, lãnh vực). Mười tám giớilãnh vực, biên vực này chính là thế giới như chúng ta kinh nghiệm.

Nói rằng thế giới như bình thường chúng ta kinh nghiệm là vật chất, bởi vì, trước hết, sáu giác quan của chúng ta chỉ kinh nghiệm được vật chất, cái gì có hình dạng, màu sắc, nghe được, xúc chạm được… Rồi chính cái thế giới cứng đặc, vô tri vô giác, không sống động trơ lì, bất động này trở thành môi trường sống của chúng tatrói buộc chúng ta trong những giới hạn của nó. Vì đời sống chỉ là vật chất, hạn hẹp, thiếu sinh khí, nên cuộc đời của chúng tacũng thô nặng, thiếu năng lượng, và dần dần chúng ta bị chìm ngập trong một thế giới vô hồn đó.

 

Nhưng tại sao, do đâu, có thế giới vật chất này để chúng ta bị trói buộc vào đó? Các kinh điển nói nhiều về vấn đề này, như kinh Lăng Già, Lăng Nghiêm, Viên Giác… Ở đây chúng tatư duy theo Luận Phật tánh, bản dịch ra tiếng Tây Tạng (Buddha Nature, Mahayana Uttaratantra Shastra by Arya Maitreya)

 

51. Bởi vì những lỗi lầm chỉ là tình cờ (duyên sanh) trong khi những phẩm tính (của Phật tánh) là bản tánh của nó, là thực tại bất biến, trước sau vẫn như nhau.

52. Như hư không tràn ngập khắp nhưng hoàn toàn không bị ô nhiễm, bởi vì cực kỳ vi tếtương tựbản tánh này hiện diện trong tất cả chúng sanh, vẫn tuyệt đối không ô nhiễm.

53. Như những vũ trụ sanh khởi và tan diệt trong hư khôngcũng thế, những giác quan sanh khởi và tan diệt trong hư không vô sanh.

54. Như hư không chẳng bao giờ bị lửa thiêu hủycũng thế bản tánh này không bao giờ bị lửa già, bệnh, chết thiêu hủy.

55. Đất được nâng đỡ bởi nước, nước bởi gió, gió được nâng đỡ bởi hư không, nhưng hư không chẳng được nâng đỡ bởi bất cứ cái gì, gió, nước hay đất.

 

Phật tánh hay bản tánh của tâm thì như hư không, tràn ngập khắp, thấm nhập tất cả mọi vậtnhưng không hề bị ô nhiễm dù sự vật nhỏ đến đâu. Không bị ô nhiễm bởi sự vật và không được cái gì nâng đỡ, nghĩa là không nương dựa vào bất cứ vật gì, nên nó vốn giải thoát và là ‘nơi chốn’ của giải thoát.

Điều quan trọng nhất là “bản tánh này hiện diện trong tất cả chúng sanh”.

Trong khi đó mọi vật đều phải được nâng đỡ, nghĩa là phải nương dựa, phải lệ thuộc, và chính mọi vật này tạo thành cái mà chúng ta gọi là thế giới sanh tử. Như vậy muốn thoát khỏi sanh tửthoát khỏi mọi vật thì phải đưa chúng vào hư không không nương dựa. Muốn thoát khỏi sanh tử, những vật của tâm, thì phải đưa chúng vào bản tánh của tâm như hư không.

 

56. Tương tự, những uẩn, những nguyên tố, những giác quan, đặt nền trên nghiệp và những nhiễm ô. Nghiệp và nhiễm ô luôn luôn đặt nền trên một cách suy nghĩ sai lầm (a mode of thought which is wrong).

57. Cách nghĩ không đúng này có căn cứ trong sự thanh tịnh của tâm, trong khi bản tánhchân thật của tâm không có căn cứ trong bất kỳ hiện tượng nào.

 

Đất, nước, gió đều nương dựa vào hư không, trong khi hư không không nương dựa vào vật gì cả. Tương tự, những cái tạo nên thân tâm và thế giới của con người, những uẩn, những nguyên tố, những giác quan, nương dựa, đặt nền trên nghiệp và những nhiễm ô (của tâm).

Nghiệp là gì? Là cái quy định thân tâm hiện tại của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta đang có nghiệp làm người, và người có năm giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân như loài vật, mặc dù khả năng của các giác quan khác nhau giữa hai loài. Loài người có thêm một giác quan nữa là ý, loài vật không có hoặc có mà rất yếu. Giác quan như thế nào thì thế giới được nhìn ra như thế ấy.

Thử tưởng tượng chúng ta không có thân để xúc chạm, chúng ta không biết trạng thái của một vật là gì, thể đặc, thể lỏng, thể hơi… và chúng ta sẽ thấy một vật như thấy trên màn ảnh, chỉ là một hình ảnh, không trọng lượng, không nhiệt độ.

Ngay cả ý cũng bị quy định bởi nghiệp, ý nghiệp: người thì thích loại sự vật này, không thích loại kia; có người thích hệ thống triết học này, không ‘mặn mà’ với hệ thống triết học kia, dù cả hai đều là Phật giáo.

Cách nhìn thế giới của mỗi người là do nghiệp quyết định, nghĩa là do những kinh nghiệmcủa các giác quan và tâm thức (ý) quyết định.

 

Nhiễm ô là những ấn tượng, những dấu vết của kinh nghiệm của thân tâm in vào và còn đọng lại trong tâm thức. Ví dụ tôi có một kinh nghiệm không tốt về một người (hẳn là do chủ quan), dấu vết ấy vẫn còn đọng lại trong tâm thức chưa thể xóa bỏ, tạo thành một thái độcủa tôi với người ấy.

 

Tóm lại, tôi nhìn thế giới, những người khác như thế nào, đó là do nghiệp và những nhiễm ôcủa tôi khiến tôi kinh nghiệm và phản ứng lại như thế. Và thế giới cứng đặc, chỉ là vật chất, đó là do tâm thức bị giới hạn trong nghiệp và những nhiễm ô khiến thấy ra như thế và đáp ứng lại như thế.

*

Nhưng nghiệp và nhiễm ô luôn luôn đặt nền, nương dựa vào một sai lầm căn bản, đó là một cách suy nghĩ không đúng (This improper mode of thought). Cách nghĩ không đúng, sai lầmnày chính là sự không biết, mù tối, vô minh.

Cách nghĩ không đúng, sai lầm này là gì? Đó là nghĩ lầm (vọng tưởng), thấy lầm (vọng kiến) rằng mọi hiện hữu, mọi sự vật là có bản chất của tự chúng, thật có tự tánh của chúng. Trong khi đó nghĩ đúng, thấy đúng phải là mọi hiện hữu, mọi sự vật đều không có tự tánh, “vô tự tánh”, “bất khả đắc”, không thể cầm nắm, như các kinh đều nói.

Vì thấy mọi sự là có tự tánh, tự độc lập và tách biệt, nên thấy ra một thế giới cứng đặc, thô nặng, cụ thể, khác với điều Kinh Kim Cương nói:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng, huyễn, bọt, bóng 

Như sương, như điện chớp 

Hãy quán thấy như vậy.

Sự hiểu biết của chúng ta về vật lý lượng tử cũng cho chúng ta một hình ảnh về thế giới như vậy. Nhưng như chúng ta đều biết, vật lý lượng tử chỉ nói cho chúng ta một vài khái niệm thuộc ý thức mà không cho chúng ta một cái quán thấy trực tiếp và triệt để để có thể chứng nghiệm một sự thật của sự vật và của cả phía chủ thể là chúng ta, rằng tất cả chủ thể và tất cả đối tượng đều “vô ngã và vô pháp”, tức là thấy tánh Không của mọi đối tượng và mọi chủ thể quan sát. Thấy tánh Không của mình, người và thế giới là giải thoát khỏi thế giới vật chấtdo nghĩ và thấy sai lầm như chúng ta đang kinh nghiệm.

 

Điều quan trọng nhất là cách nghĩ sai lầm này, cái thấy sai lầm này, đặt nền nơi, nương dựa vào hư không hay chính xác hơn, vào “bản tánh chân thật của tâm như hư không, không trụ vào bất kỳ vật (hiện tượng) nào”.

“Cách nghĩ không đúng này có căn cứ trong sự thanh tịnh của tâm, trong khi thật tánh của tâm thì như hư không, không có chỗ trụ”. Qua câu 57 này, xác định một điều là sự thanh tịnhcủa tâm cũng là tánh Không không nhiễm ô của tâm.

Cái thấy sai lầm này luôn luôn đặt nền, nương dựa vàohiện hữu trong bản tánh của tâm như hư không, nghĩa là không trụ vào đâu cả, đây chính là sự giải thoát cho cái thấy, cách nghĩ sai lầmvô minh của con người.

 

Đặt nền trên thiền định để thiền quán và thấy rõ rằng cách suy nghĩ, cái thấy sai lầmvô minh, như nguyên nhân căn bản làm khởi hiện một chuỗi sanh, già, bệnh, chết, nhưng luôn luôn đặt nền nơi hư không, nghĩa là không có nền móng, căn cứ ở đâu cả: đây là cánh cửa giải thoát.

 

58. Các uẩn, nhập và giới nên biết tương tự đất. Nghiệp và những nhiễm ô của chúng sanhthì tương tự như nước.

59. Cách suy nghĩ không đúng tương tự gió, trong khi thật tánh thì giống như hư không – không có căn cứ và không có chỗ trụ.

60. Cách suy nghĩ không đúng ở trong bản tánh của tâm. Cách suy nghĩ không đúng này làm khởi lên nghiệp và những nhiễm ô.

61. Từ nước của nghiệp và những nhiễm ô sanh khởi những uẩn, nhập và giới; chúng sanhra và tan diệt như mọi sự có bắt đầu và có chấm dứt.

62. Bản tánh của tâm giống như hư không: nó không có những nguyên nhân và những điều kiện, cũng không phải là sự hòa hợp của những cái đó, cũng không sanh, trụ, diệt.

63. Thật tánh của tâm – trong sáng này, như hư khôngbất biến, không ô nhiễm bởi các phiền não, chúng là những bất tịnh nhất thời, phát ra từ suy nghĩ không đúng.

64. Không sanh bởi nước nghiệp và những nhiễm ô vân vân… cũng không bị thiêu hủy bởi lửa của già, bệnh, chết.

 

Các uẩn là năm uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Các nhập là mười hai nhậpsáu giác quanhợp với sáu trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Mười tám giới là sáu giác quansáu trầnvà sáu thức. Mười tám giới là tất cả thế giớivũ trụ con người kinh nghiệm được.

 

Trong những đoạn kệ này nói về sự sinh thành của thế giới sanh tử từ cách suy nghĩ không đúng của mỗi người. Sự sinh thành từ tâm này được so sánh tương tự với sự sinh thànhcủa bốn nguyên tố đất, nước, lửa, gió của thế giới ‘bên ngoài’.

Đầu tiên, cách suy nghĩ không đúng là gió. Cách suy nghĩ không đúng này (gió) sanh ra nghiệp và những nhiễm ô (nước) và dựa vào chúng. Từ nghiệp và những nhiễm ô sanh ra những uẩn, nhập và giới (đất). Những uẩn, nhập và giới sanh ra thế giới của sanh già, bệnh, chết (lửa).

 

Nhưng cái đầu tiên, cách suy nghĩ không đúng như gió này, sanh ra và nương dựa trong sự thanh tịnh của tâm, và bản tánh của tâm thì không có chỗ trụ, tức là tánh Không. Như thế, vô minh căn bản là cách suy nghĩ không đúng sanh từ bản tánh của tâm như hư không nên nó cũng có bản chất như hư khôngvô tự tánh và không chỗ trụ. Thấy được bản chất của vô minhsuy nghĩ sai lầm như vậy thì vô minh tan rã.

 

Hơn nữa, cách suy nghĩ không đúng không có căn cứ và không có chỗ trụ, nghĩa là không thật hiện hữu, cho nên tự nó là giải thoát.

Bản tánh của tâm giống như hư không, không sanh ra từ những nhân duyên, “cũng không sanh, trụ, diệt”. Cũng thế, cách suy nghĩ không đúng ở trong bản tánh của tâm thì có tính chất là bản tánh của tâm, nên cũng không sanh, trụ, diệt.

 

Cái ban đầu là cách suy nghĩ sai lầm đã không có chỗ trụ, nên nghiệp và những nhiễm ô cho đến mười tám giới (thế giới vật chất) đều không có chỗ trụ nghĩa là không sanh, không trụ, không diệt, như hoa đốm giữa hư không. Không có chỗ trụ, không trụ ở đâu cả, nghĩa là không sanh, và không sanh nên không diệt.

 

Chỉ cần lấy một nghiệp, một nhiễm ô, và quan sát dựa trên thiền định cho đến rốt ráo, thì sẽ thấy ra một nghiệp, một nhiễm ô là vô tự tánh, không có chỗ trụ, không có thật, nghĩa là vốn giải thoát, vì chưa từng có.

 

Trụ trong bản tánh của tâm như hư không, người ta vẫn có thể ở nơi thân tâm này, thế giớinày, nhưng không bị ô nhiễm bởi vì đã thấy ra sự thật của chúng. 

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 37)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(View: 272)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(View: 375)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(View: 436)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(View: 539)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất gia và tại gia mỗi ngày.
(View: 650)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(View: 524)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(View: 574)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(View: 611)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(View: 753)
Việt Nam là quốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(View: 696)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(View: 949)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(View: 702)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(View: 678)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(View: 778)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(View: 531)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(View: 712)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(View: 670)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(View: 696)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(View: 668)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(View: 915)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(View: 744)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 767)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 687)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 981)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 986)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 1146)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 987)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 1125)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 1352)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 1229)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 1040)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 923)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 984)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 839)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 894)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 1535)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 1195)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 1087)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 1244)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 1373)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 1282)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 1325)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 1686)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 1512)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 1465)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 1433)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1901)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 1553)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 1414)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 1542)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 1675)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 1401)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 2067)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 1448)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 1547)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 1742)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1656)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM