Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài Kinh Giải Thoát Nhanh Nhất Thế Gian Kinh Bahiya “bahiya Sutta” Thuộc Tiểu Bộ Kinh.

Wednesday, March 12, 202518:42(View: 157)
Bài Kinh Giải Thoát Nhanh Nhất Thế Gian Kinh Bahiya “bahiya Sutta” Thuộc Tiểu Bộ Kinh.

Bài Kinh Giải Thoát Nhanh Nhất Thế Gian
Kinh Bahiya “bahiya Sutta” Thuộc Tiểu Bộ Kinh.

Lê Sỹ Minh Tùng

 122



Khi đức Phật còn tại thế, có câu chuyệnrất hy hữu trong Tiểu Bộ Kinh mà có lẽ người Phật tử đã có lần nghe qua.

Số là, đức Phật đang ở tịnh xá Kỳ viên(Jetavana), thuộc thành Xá Vệ(Savatthi) do trưởng giả Cấp Cô Độc(Anathapindika) phát tâm cúng dường. Lúc bấy giờ, có ông Bahiya Daruciriya đang ở Supparaka, bên bờ biển, được tôn kínhtôn trọng đảnh lễcúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng toạ và dược phẩm trị bệnh khiến cho ông khởi lên tư tưởngnhư sau:
“Với ai là bậc A la hán hay đang đi con đường A la hán, ta là một trong những vị ấy”.

Rồi một Thiên nhân đi đến và nói với Bahiya rằng:

“Này Bahiya. Ông không phải là A la hán hay đang đi trên con đường A la hán. Ông không có đạo lộ ấy, với đạo lộ này ông có thể trở thành A la hán hay đang đi trên con đường A la hán.

Ông Bahiya hỏi lại:

Nhưng ai mới là những vị trong thế giới này là những vị A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán?

Chư thiên liền đáp lại:

-      Này Bàhiya, có thành phố tên là Xá V, Sàvatthi trên những quốc lộ phương Bắc. Tại đấy có Thế Tôn hiện đang trú là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị ấy là bậc A-la-hán và thuyết pháp đưa đến quả A-la-hán.

Rồi Bàhiya, được Thiên nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappàrakatrong suốt đường trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở Xá VệSàvatthi, tại tịnh xá Ký viên, Jetavana, trong khu vườn của Trưởng giả Cấp Cô Độc, Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều Tỳ-kheo đang đi kinh hành thì Bàhiya đi đến nói với các vị Tỳ-kheo ấy như sau:

- Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Chánh Giác đang ở đâu? Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác?

- Này Bàhiya! Thế Tôn đang đi đến từng nhà trong thành để khất thực.

Rồi Bàhiya mau chóng rời khỏi tịnh xá Kỳ Viên,Jetavana, đi vào thành Xá VệSàvatthi, và thấy Thế Tôn đang đi khất thực với dáng khả ái. Thấy vậy, Bàhiya liền đi đến Thế Tôn, cúi đầu xuống chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn rẳng:

- Bạch Thế TônThế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Khi được hỏi vậy, Thế Tôn nói với Bàhiya:

- Không phải lúc, này Bàhiya, Ta đang khất thực.

Lần thứ hai Bàhiya  lại thưa với đức Phật:

- Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế TônThế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Lần thứ hai, đức Phật lại nói vi Bàhiya rng:

- Không phải lúc, này Bàhiya, Ta đang khất thực.

Lần thứ ba, Bàhiya lại thưa với đức Phật:

-      Thật khó biết... hạnh phúc lâu dài.

Sau cùng, đức Phật liền ban cho Bahiya một bài pháp rằng:

-     Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cáí thức tri ".

-     Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.

Sau khi nghe lời thuyết pháp tóm gọn này của đức Phật, tâm ca Bàhiya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủThế Tôn sau khi thuyết cho Bàhiya lời giáo giới tóm tắt này, liền ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, một con bò con húc chết BàhiyaThế Tôn sau khi khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi ra khỏi thành với nhiều Tỳ-kheo, thấy Bàhiya bị chết, thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:

- Này các Tỳ-kheo, hãy lấy thân xác Bàhiya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Này các Tỳ-kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các Thầy đã qua đời!

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỳ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, sau khi đặt xác thân của Bàhiya lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêuxây dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên và các Tỳ-kheo ấy bạch với đức Phật rằng:

-      Bạch Thế Tôn, thân xác của Bàhiya đã được hỏa thiêu, tháp đã được xây dựng xong cho vị ấý?  Vị ấy đã đắc quả vị gì chăng? Đời sau vị ấy là gì?

-      Này các Tỷ-kheo, Hiền trí Bàhiya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Này các Tỳ-kheo, Bàhiya đã nhập Niết Bàn.

Đức Phật đã khẳng định là Bahiya đã nhập Niết bàn nghĩa là trước khi chết, ông Bahiya đã trở thành A la hán vì vậy ông Bahiya đã xã bỏ tấm thân tứ đại để nhập Vô dư ý Niết bàngiống như đức Phật hay các vị A la hán khác.

Vy đc Pht đã dy cho ông Bahiya giáo pháp gì?

Nhắc lại rằng thân tâm của con người được kết hợp bởi năm thành phần là Sắc tức là tấm thân tứ đại và Thọ, Tưởng, Hành, Thức thuộc về phần tinh thần mà được gọi chung là năm uẩn (ngũ uẩn). Người đời thì thường cho rằng thân xác này là của tôi, cảm giác là của tôi hay tri thức tức là cái biết cũng là của tôi cho nên năm uẩn là căn bản cho bản ngã tức là cái tôi của mỗi cá nhân trong thế gian này. Thí dụ thân đau thì cho là tôi bị đau, tôi buồn, tôi thế này này, thế nọ…Vì thế mỗi khi có một ý niệm xuyên qua trong tâm thức để tạo thành năm uẩn thì cái tôi cũng từ đó hình thành.

Trước hết hãy phân tích câu: “Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy” và những cái nghe, thọ, tưởng hay thức thì sự phân tích cũng giống như vậy.

Vậy thế nào là cái thấy? Muốn có cái thấy thì chúng ta phải có vật để thấy tức là đối tượng, con mắt để thấy và tánh thấy mà chúng ta có thể giải thích theo khoa học là hệ thần kinh của mắt và trung khu nhớ của thấy trong hệ thống não bộ. Khoa học cho thấy trong hệ thống não bộ của con người chia ra thành múi và mỗi múi chịu trách nhiệm cho mỗi chức năngThí dụmúi về cái thấy thì thỉ hoạt động cho cái thấy một khi nó nhận tín hiệu từ con mắt rồi nó chuyển những tín hiệu đó vào múi não bộ để phân tích và sau cùng nó cho ta cái thấy. Tuy là nói đơn giản, nhưng hệ thống não bộ của con người hoạt động chằng chịt bởi trên 86 tỷ dây thần kinh. Nó phức tạp cũng giống như mấy con Chip của máy điện tử ngày nay.

Một đứa bé mới sinh ra, vừa khi mở mắt thì nó thấy nào là những hình tướng mà chúng tagọi là con người, nhà cửa, TV, bàn ghế…nhưng lúc đó nó chỉ mở to đôi mắt để nhìn, để quan sát và ghi nhận, nhưng trong tâm thức của nó chưa bao giờ biết vật nó đang nhìn là vật gì, tên gọi là gì. Dần theo thời gian, nó thu nhận từ thế giới bên ngoài và hấp thụ vào trong não bộ của nó và ghi nhận lại đây là cái nhà, đây là chiếc xe, đây là cái TV…Từ đó nếu nó thấy một cái TV là nó biết ngay đây là cái TV. Những ký ức, kinh nghiệm đã ghi sâu vào trong tâm thức của đứa bé. Những ký ức đó nằm trong Tưởng và mỗi khi mắt thấy vật gì thì nó liền đem vật đó so sánh với những gì đã có trong Tưởng để cho chúng ta biết vật đó là gì. Đó là chức năng của ý thức tức là tâm phân biệt. Một thí dụ khác, nếu người Việt chúng ta đi du lịch sang Bồ Đào Nha thì họ nói họ nghe, mình nói mình nghe bởi vì trong ký ức chúng tachưa bao giờ có bộ nhớ về tiếng Bồ Đào Nha. Do đó ý thức chỉ có thể hoạt động cho chúng ta cái biết một khi trong hệ thống não bộ tức là Tưởng uẩn phải có những dữ kiện chứa sẵn trong đó.

Tóm lại, khi mắt thấy một đối tượng và cho chúng ta biết đó là vật gì, hình ảnh gì thì cái thấy đó là cái thấy của quá khứ vì tâm đang so sánh cái đang thấy với cái đã thấy. Nói cách khác cái thấy mà mắt đang thấy thì nó đang phản ảnh cái đã thấy trong tâm chớ không phải vật thể mà mắt đang thấy trong hiện tạiThí dụ mắt nhìn thấy chiếc xe thì tâm dấy khởi hình ảnhchiếc xe trong tâm chớ không phải chiếc xe mình đang thấy.

Sau khi tâm so sánh để cho chúng ta biết đó là cái gì thì ý tưởng đó chuyển ngay sang Thọ và từ đó chúng ta có cảm tưởng tốt hay không tốt, thương hay ghét, chấp nhận hay chối bỏ…bởi vì trong tâm đã có ý niệm tốt hay xấu, thương hay ghét vật đó rồi. Vì vậy chức năngcủa Thọ rất quan trọng vì những cảm thọ thích hay không thích, thương hay ghét, tốt hay xấu sẽ khiến cho cái thấy, biết không còn trung thực như nó đang là mà hướng về những cảm xúc của Ngã.

Vì vậy trong tâm của chúng ta đã có những định kiến do những ký ức, kinh nghiệm mà chúng ta đã từng trải trong quá khứ cho nên cái thấy của mắt không phải là cái thấy trung thực mà cái thấy đã bị ảnh hưởng bởi định kiến của chúng ta. Do đó khi thực hành thiền, hành giả phải cố gắng loại bỏ dần những định kiến để tâm thấy, biết một cách trung thựcnhư nó đang là. Vì thế, một người càng có nhiều định kiến thì tâm khó nhìn thấy, biết trung thựcThí dụ cùng một đối tượng mà hai người có hai nhận xét khác nhau vì hai người có hai định kiến khác nhau. Những kinh nghiệm, ký ức của hai người không giống nhau cho nên cũng cùng một đối tượng mà hai người có hai cái nhìn khác biệt.

Vì thế đức Phật dạy rằng này Bahiya nếu ông muốn tu giải thoát thì trong cái thấy chỉ có cái thấy nghĩa là trong cái thấy không có định kiến, không còn để ký ức kinh nghiệm chi phối cái thấy của ông. Nói cách khác khi mắt thấy thì cái thấy ấy là trực giác thấy sao biết vậy không để cho nó chuyển sang Thọ nghĩa là không để cho cảm xúc thương, ghét chi phối cái thấy của ông. Đó là thay vì mắt thấy thì bây giờ cái thấy của ông trở thành tôi thấy. Do đó muốn có cái thấy trung thực thì cái thấy đó không có ông trong đó nghĩa là mắt thấy đối tượng chớ không phải ông Bahiya thấy đối tượng thì ông không còn dính mắc, tâm tham ái không dấy khởi và vô minh vì thế mà bị diệt. Nếu không còn tham áivô minh diệt thì chấm dứt sinh từ và có giải thoát tức thì.

Thêm nữa, đức Phật cũng muốn nhấn mạnh với ông Bahiya rằng là không có ông ở trong đó, không có ông ở trong tương lai và không có ông ở đây nghĩa là toàn bộ cái Ta của ông Bahiya muốn tạo tác liền bị dập tắt.

Vì thế khi nhìn bất cứ đối tượng nào thì chỉ nhìn thôi, đừng cộng thêm định kiến vào vì có định kiến là có sự hiện diện của Ngã mà có Ngã là có tham đắm, si mê tức là còn tranh chấp, khổ đau. Vì thế nếu vắng bóng của Ngã thì sẽ không còn vô minhvọng chấp, tham đắm, dục tình.

Cốt lõi của bài kinh này mà đức Phật muốn nhấn mạnh ở đây là đức Phật muốn phá cái Ngã của ông Bahiya bởi vì ông ta đã tu trên bao nhiêu năm, bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp và cứ nghĩ rằng mình đã trở thành A la hán. Nhưng ông Bahiya quên mất một điều là khi ông nói tôi chứng A la hán thì lập tức có sự hiện diện của Ngã và vì thế đức Phật muốn nhắn nhủ với ông ta rằng nếu ông Bahiya muốn có giải thoát thì chính ông ta phải tự mình phá cái Ngã của mình. Vì vậy, ở đây đức Phật muốn chỉ cho ông Bahiya cái thấy trung thực nhất là chỉ biết cái thấy mà đừng cho nó qua Thọ uẩn vì thế không còn cảm xúc thì năm uẩn tức là cái Ngã, Cái Tôi không bao giờ xuất hiện.

Bây giờ nếu không còn tuỳ thuộc vào năm uẩn và những ký ức trong tâm thức không còn chi phối cái thấy của mình nữa thì lúc bấy giờ chúng ta thấy đối tượng như là những hiện tượngsinh và diệt mà không còn chi phối bởi những cảm xúc thương ghét, tốt xấu nữa. Nói cách khác trong cái thấy thì chỉ biết cái thấy mà không có cảm xúc xen vào để hình thành bản Ngãlà tôi thấy thì cái thấy đó mới là cái thấy chân thật. Không có chấp Ngã nghĩa là không có sự hình thành của năm uẩn cho nên cái thấy thuần khiết đó chỉ là cái thấy mà thôi. Cái thấy, biết như vậy mới là “Đối cảnh vô tâm” nghĩa là cái thấy biết trung thực như nó đang là, không có Cái Tôi trong đó chớ không nhất thiết phải ngồi thiền hay niệm Phật mà tâm còn dính mắc và đây là con đường đi đến tâm thanh tịnhtự tại Niết bàn.

Khi ông Bahiya phá được năm uẩn thì ông trở thành A la hán bởi vì đức Phật đã dạy rằng khi ông Bahiya thấy Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều không có thật mà Bát Nhã Tâm Kinhgọi là “Ngũ uẩn giai không” thì không còn lậu hoặc nào tồn tại trong tâm nữa. Năm uẩnkhông có thì không có cái Ta, lậu hoặc không còn nghĩa là phiền não biến mất thì lúc đó ông Bahiya trở thành Thánh giả tức thì. Nói cách khác còn chấp vào năm uẩn thì phiền não còn, bây giờ thấy biết năm uẩn là không, Thọ tức là cảm xúc cũng không, Tưởng tức là ký ức cũng không thì Hành và Thức cũng không cho nên thương ghét cũng không, ái luyến cũng không và sau cùng phiền não cũng bay luôn.

Một khi Thọ không còn, Ngã biến mất thì tham ái gây ra phiền não cũng tự diệt.

Trong sáu giác quan hay là sáu căn của con người thì mắt thấy và tai nghe có lẽ là hai cơ quan sắc bén nhất mà con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Vì sự nhạy bén đó mà bài kinh Bahiya này, đức Phật muốn nhắn nhủ với chúng sinh những lợi ích của nó khi chúng tabiết áp dụng nó vào trong cuộc sống thường nhật.

1)Đối với mắt, trong cái thấy chỉ là cái thấy: Hàng ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ, con người phải đối diện với biết bao cảnh tượng từ thế giới bên ngoài. Có lúc mắt thấy cảnh tốt, có lúc mắt thấy cảnh không hài lòng và nó cứ liên tục xảy ra dọc theo dòng thời gianHài lòng hay không hài lòng là vì những cảnh giới đó có hợp hay đi ngược lại với bản ngã của mình chớ cảnh giới đó chỉ là cảnh giới cho dù mình có thích hay không. Trong cuộc sống, bạn thấy biết bao cảnh trái ý nghịch lòng khiến cho bạn không vui hay có những lúc may mắn bạn thấy những cảnh tượng tốt khiến cho bạn hạnh phúc. Bây giờ hãy quan sát trở lạicảnh giới bên ngoài là cảnh giới bên ngoài, nó xảy ra cho dù bạn có thích hay không thích. Thích hay không thích là vì cảnh giới đó có thoả thích những gì mà bản ngã của bạn đeo đuổi vì thế cùng một đối tượng mà hai người có hai quan điểm khác nhau. Vậy ai đúng ai sai? Vì thế đức Phật nhắn nhủ chúng sinh là nếu muốn được tự tại thì lúc thấy chỉ thấy vậy thôi, nó sao để yên vậy đừng có cộng ngã chấp của mình vào thì tâm mình được yên bình, tự tại.

2)Đối với tai, trong cái nghe chỉ là cái nghe: Trong sáu giác quan của con người thì tai là cơ quan nhạy bén nhất vì thế nó cũng là nguyên nhân đưa đến biết bao phiền não, nổi khổ niềm đau cho nhân thế. Sáng mở mắt ra là đã nghe cho đến khi lên giường thì tai vẫn còn nghe. Vì thế đức Phật muốn nhắn nhủ chúng sinh rằng nghe thì tai vẫn nghe, nhưng đừng đem ngã chấp tức là thương yêu, ghét bỏ vào cái nghe thì cuộc sống sẽ không còn sóng gióThí dụ tai nghe một người nói không tốt thì mình cảm thấy không hài lòng. Không hài lòng là vì khi tai vừa nghe thì cảm xúc tức là Thọ đã khởi lên khiến cho ta không hài lòng vì nó chống lại với bản ngã. Nói cách khác, thích hay không thích là vì Ngã thích hay không thích chớ câu chuyện tự nó không dính dáng gì đến cái Ngã của chúng ta. Nghe khen hay nghe chê là ngoại giới từ bên ngoài rồi sau đó nó khích động cái Ngã từ bên trong để cho bạn có cảm giác hài lòng hay bực bội và từ đó cuộc sống của bạn thăng trầm có lúc vui, có lúc buồn cũng vì phản ứng của cái Ngã của bạn. Bây giờ nghe thì tai vẫn cứ nghe, nhưng cái khác nhau bây giờ là nghe để biết nhưng không để cho cái Ngã làm chủ bạn thì bạn sẽ giảm bớtrất nhiều những tiếng thị phiphải trái đã chi phối cuộc đời của bạn. Vì thế tai nghe thì cứ nghe, nghe rồi bỏ ngoài tai thì làm gì có phiền não.

Đức Phật muốn nhắn nhủ với chúng sinh rằng trên thế gian này, không một ai hiểu mình cho bằng mình do đó, nếu bạn là người tốt, hay xấu thì chính bạn biết cho nên nếu bạn là người xấu mà người đời khen tặng bạn thì chính bạn sống trong ảo tưởng và người nói lời tốt đẹpđó đối với bạn là người giả dối, không tốt. Ngược lại, nếu bạn là người tốt mà có ai chê tráchbạn thì mặc kệ họ vì những lời chê trách đó phải chăng đến từ ganh tỵ chớ làm sao họ biết bạn hơn chính bạn được.

Thiền của Phật giáo không phải là tìm một nơi vắng vẻ rồi ngồi để tư duyquán chiếu mà thật ra chủ yếu thiền của Phật giáo là để phát triển trí tuệ bằng cách thực hành Chánh kiếnChánh tư duy vào trong những hoạt động của cuộc sống hằng ngày. Thấy thì ta vẫn thấy, nghe thì ta vẫn nghe, nhưng đừng đem nó vào tâm rồi lấy chuyện của người làm chuyện của mình và từ đó phiền não khổ đau bắt đầu sinh khởiĐức Phật dạy quán chiếu nghĩa là phải áp dụng Chánh kiến tức là cái thấy biết như thật và Chánh tư duy là tư duy chân chính, không để bản Ngã xen vào mọi tư duy của cuộc sống thì chắc chắn cuộc sống sẽ không còn điên đảo khổ đau.

Nên nhớ Tam vô lậu học: Giới thì phải thực hành rốt ráo Chánh NgữChánh Nghiệp và Chánh Mạng để có cuộc sống đạo đức nghĩa là ăn hiền ở lànhlàm lành lánh dữ và kết quả từ cá nhân đến gia đình sẽ có cuộc sống hiền hoà tốt đẹp, trên thuận dưới hoà. Không nói dối, nói lời khiếm nhã thì mọi người kính mến, ngược lại nói dối, nói thêu dệt, nói lời độc ácthì còn ai dám tin mình? Ông bà ta có câu: “Một lần bất tín vạn lần bất tin” vì thế tín nghĩa là một yếu tố tất yếu để vun bồi cuộc sống đạo đức. Bạn có thể lừa người một lần, nhưng sau đó họ sẽ lánh xa bạn. Không trộm cắpsát sinhtà dâm thì tâm mới an tịnh được, và lòng từbi sẽ nẩy nở, biết thương mình và thương người.

Bây giờ từ Giới bạn thực hành Chánh Tinh TấnChánh Niệm và Chánh Định để hướng tâm về an Định. Trong cuộc sống con người luôn đối diện với hết phiền não này đến buồn phiềnkia bởi vì chúng ta không sống đúng trong thời điểm hiện tại. Thay vì sống đúng và thưởng thức cuộc sống ngay bây giờ thì chúng ta lại để tâm hoài tưởng quá nhiều về quá khứ hay hướng tâm lo lắng cho tương lai. Bộ óc của con người trong một thời điểm chỉ hoạt động tốt cho một chức năng vì thế nếu áp dụng Chánh niệm nghĩa là bạn biết trong lúc đó bạn đang nghĩ gì hay làm gì một cách rõ ràngchính xác mà danh từ nhà Phật gọi là tỉnh thức chánh niệm thì công việc sẽ có kết quả tốt đẹp hơn. Và sau đó áp dụng Chánh định nghĩa là đừng để tâm chạy tán loạn mà quy về thì tâm sẽ từ từ an định, nhẹ nhàng lại.

Sau cùng, bạn thực hành Chánh Kiến và Chánh Tư Duy để có cái thấy, biết và tư duy xác thực, không nghiêng hướng này hay hướng nọ. Cái thấy biết và tư duy không bị ảnh hưởngbởi Tham-Sân-Si thì mọi quyết định của bạn sẽ không còn vấp ngã và dĩ nhiên bạn sẽ tránh được những sai lầm và những nguyên nhân gây ra phiền não, khổ đau. Phát triển trí tuệkhông có nghĩa là bạn thông suốt những chuyện trên trời dưới đất mà trí tuệ ở đây là nhận thấy biết hiện tượng một cách trung thực như nó đang là vì thế quyết định của bạn sẽ tránh khỏi những sai lầm và cuộc sống sẽ êm đềm hạnh phúc.

Kết Lun:

Đức Phật đã giảng cho ông Bahiya một bài pháp rất ngắn gọn mà đem lại một kết quả to lớn và nhanh chóng. Mặc dù ông Bahiya chưa bao giờ là đệ tử của đức Phật, không tu theo những phương thức căn bản như những vị tỳ kheo khác, đó là Tứ Diệu ĐếBát Chánh Đạohay ngay cả bài Kinh Vô Ngã Tướng. Tuy nhiên, ông Bahiya đã sống đời đạo hạnh và phạm hạnh của ông chẳng khác nào như những vị đại đệ tử của đức Phật và đây là những chất liệu giúp ông trở thành Thánh giả. Với phạm hạnhđạo đức đó, ông Bahiya lầm tưởng rằng mình đã là A la hánCho đến khi đức Phật khai thị cho ông biết cái sai của ông và chỉ cho ông con đường giải thoát khiến ông Bahiya thức tỉnh và sửa lại con đường tu tập sai lầm của mình trong khoảng thời gian nhanh nhất và kết quả là ông Bahiya tận diệt mọi lậu hoặctrở thành vị A la hán chỉ trong chớp mắt. 

Tuy bài pháp ngắn gọn, nhưng đối với người thường thì không dễ gì thành tựu như ông Bahiya. Lý do là vì chúng ta chưa sống đúng theo đạo đức nhân bản, chưa thực hành Giới Đức hoàn hảo, chưa thể hướng tâm vào Định và chưa thể phát triển tối đa trí tuệ để tận diệt cái gốc rễ của phiền não Tham - Sân - Si.

Tuy nhiênbài kinh ngắn này mang đến cho chúng sinh một giá trị rất cao để chuyển hoácuộc sống từ phiền não đến hạnh phúc, an vui và tự tạiBài kinh đã chứng minh rất rõ ràngrằng cội nguồn của phiền não khổ đau chính là bản Ngã, là Cái Tôi. Bản Ngã cũng như là đám mây đen che đi ánh sáng phát ra từ trong tự tâm khiến con người có cái thấy, biết còn thiên lệchsai lầm và đưa đến quyết định dẫn đến phiền não khổ đau. Vì sống với bản Ngãcho nên con người lúc nào cũng cho là Tôi đúng, Tôi hay…vì thế bất cứ cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái cảm xúc nào đi ngược lại với Tôi đúng, Tôi hay thì lập tức phiền nãonỗi lên khiến cho thân, tâm bất anbuồn phiền

Bây giờ, muốn giảm bớt phiền não trong cuộc sống, tăng thêm an vui hạnh phúc trong cuộc đời thì người đệ tử Phật cũng cần noi theo thực hành trong tất cả các uy nghi của cuộc sống như cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm hay cái cảm xúc mà không có cái Ta dính vào trong đó. Thấy thì cái thấy vậy thôi chớ đừng cho là Tôi thấy. Nghe thì cái gì cũng nghe nhưng đừng cho là tôi nghe thì cái nghe đó không có định kiến thương yêu hay ghét bỏ thì cái thấy, nghe đó mới chính là cái thấy, nghe trung thực. Nếm mùi vị thì cũng thếcó mùi mặn, mùi nhạt, mùi đắng, mùi cay thì biết vậy thôi chớ đừng cho rằng tôi nếm thì ý tưởng khen chê, thương ghét không còn. Nếu thực hành được như vậy, con người có khuynh hướng chọn cho mình cuộc sống khách quan, không thiên vị bên này hay bên kia vì chính mình đã kiềm chế không để cho bản Ngã chi phối vào trong tư duylời nói hay hành động của mình. Nếu thế thì chúng ta đang thực hành đứng đắnrốt ráo Bát Chánh Đạo cho nên những căn bản phiền não hay rối răm của cuộc đời sẽ từ từ biến mất và cuộc sống của chúng ta sẽ có an vui, hạnh phúc và tự tại.

Trong bài kinh Bahiya thì đức Phật nói về cái thấy, nghe, nếm, ngửi, cảm xúc và biết mà kinh điển thường gọi là kiến, văn, giác, tri bởi vì kiến, văn là thấy, nghe còn nếm, ngửi, và cảm xúc là xúc giác tức là giác và biết tức là tri. Tuy nhiên, kiến, văn, giác, tri thường được gọi tắc là tri, kiến mà chúng ta thường nghe Tri Kiến Phật trong Kinh Pháp Hoa. Vì thế chi đầu tiên trong Bát chánh đạo chính là Chánh tri kiến tức là cái thấy, biết trung thực nghĩa là trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe…mà không có cái Ta nào trong đó. Thí dụ nếu có người khen mà không có cái Ta trong đó thì ai mừng? Hay có người chê mà không có cái Ta trong đó thì ai hờn giận? Không có mừng vui hay hờn giận thì làm gì có khổ. Hết khổ là có an vui, tự tại ngay. Thực hành như thế thì tâm sẽ an chớ trên thế gian này không có ai làm cho tâm mình an được.

Vì vậybài kinh Bahiya mà đức Phật đã giảng dạy ngắn gọn cho ông Bahiya thật ra chỉ là một cách nói của Chánh tri kiến trong Bát chánh đạo mà thôi chớ thật ra không có gì là mới lạ cả. Nếu trong Tứ Diệu Đế mà không có cái Ngã tức là Cái Ta thì không có Khổ đế, không có Tập đế mà trong cái thấy, cái nghe hay nói chung là Tri Kiến biến thành Diệt đế tức là an tịnh Niết bàn rồi. Đây mới là diệu pháp!

Nhắc lại, sau khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ đề, Ngài sau đó truyền lại giáo lý mà Ngài đã thực chứng cho 5 anh em Ngài Kiều Trần Như ở vườn naiGiáo lý của đức Phật rất đơn giản chỉ là Tứ Điệu Đế và sau đó là bài Kinh Vô Ngã Tướng thì các Ngài Kiều Trần Như đều trở thành A la hán.  Rồi sau đó, họ cùng với đức Phật đi hoàng pháp khắp nơi ở Ấn độ cũng với giáo lý đơn giản đó mà có hàng ngàn vị khác đều đã trở thành Thánh giả. Thế thì ngày xưa giáo lý càng đơn giản thì càng có nhiều vị tu chứng. Ngày nay kinh điển chất đầy thư viện, học giả khắp mọi nơi mà Thánh giả thì không có, không tìm đâu ra. Vì vậy mục đíchduy nhất của giáo lý Phật đà là thực nghiệm để tự mình trải nghiệm mà thấu biết chân lý để thấy biết như thật thế giới như nó đang là thế thôi.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 92)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng
(View: 985)
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúngTỳ-khưu, đi đến Kesaputta, thị trấn của người Kalama.
(View: 2265)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(View: 1877)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(View: 2196)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(View: 2714)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(View: 2568)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(View: 2958)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(View: 2774)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(View: 4566)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(View: 10877)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(View: 31976)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 5572)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(View: 13554)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 13210)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 16517)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 11543)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 12526)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 12103)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 12639)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 18420)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 8389)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 5917)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(View: 18150)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 15385)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 19416)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 14009)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 18505)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 15965)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 17735)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 14199)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 13576)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 13184)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 17599)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 15923)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 13659)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 16875)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 14727)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 16380)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 23268)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 14512)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 12355)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 15993)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 23109)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 15973)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 16079)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(View: 13379)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(View: 16931)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(View: 12269)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(View: 12253)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(View: 13974)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(View: 16235)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(View: 18883)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(View: 12964)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(View: 12534)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(View: 13771)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(View: 57514)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(View: 16902)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(View: 15473)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(View: 12511)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM