Đức Thế Tôn và Trưởng Lão Thích Tâm Châu,
Hòa Thượng Thích Chân Tôn
Theo Trường Bộ Kinh, phẩm kinh Đại Bát Niết Bàn đã nói lên cuộc Du hành cuối cùng của Đức Thế Tôn như sau: ( Xin lược kinh)
Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), trên núi Gijjhakùta (Linh Thứu)…. Sau khi hỏi những câu hỏi tình hình nhân dân của nước Bạt Kỳ ( (Vajjì) với Ananda, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, một thời Ta sống ở Vesàli tại tự miếu Sàrandada, Ta dạy cho dân Vajjì bảy pháp bất thối này. Này Bà-la-môn, khi nào bảy pháp bất thối được duy trì giữa dân Vajjì, khi nào dân Vajjì được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời Bà-la-môn, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Kế đến, Đức Thế Tôn dạy bảy pháp bất thối cho chúng tỳ kheo.
Từ đó Đức Thế Tôn đến làng Ambalatthikà, làng Nalandà, làng Pàtaligàma, Ngài vượt sông Hằng đến làng Kotigàma, làng Nadika và đến thành phố Tỳ xá ly (Vesàli) ( 115 cây số từ Vương xá đến Tỳ xa ly) và Ngài dạy chúng tỳ kheo “ Này các Tỷ Kheo hãy an cư trong mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quen thuộc và thân tín. Còn Ta sẽ an cư ở đây, tại làng Baluvà ( ngoại ô của Tỳ xá ly)”.
Trong khi Thế Tôn an cư trong mùa mưa, đây là mùa an cư cuối cùng của Đức Thế Tôn, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, rất đau đớn, gần như muốn chết. Nhưng Thế Tôn giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán. Thế Tôn tự nghĩ: "Thật không hợp lẽ nếu Ta diệt độ mà không có một lời với các đệ tử hầu cận Ta, không từ biệt chúng Tỷ-kheo. Vậy Ta hãy lấy sức tinh tấn, nhiếp phục cơn bệnh này, duy trì mạng căn và tiếp tục sống". Và Thế Tôn với sức tinh tấn, nhiếp phục bệnh ấy duy trì mạng căn.( Trong Kinh SN 47.9, Đức Phật kể rằng, bấy giờ bệnh trầm trọng khởi lên, thân thể đau đớn, Ngài mới dùng Thiền Vô Tướng bằng cách "không tác ý" để cơ thể dứt những cơn đau: "Này Ananda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy, thân Như Lai được thoải mái.”). (Trong kinh SN41. I. Già (S.v,216) Lúc bấy giờ, Thế Tôn, vào buổi chiều, từ chỗ độc cư đứng dậy, ngồi sưởi ấm lưng trong ánh nắng phương Tây. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, với tay xoa bóp chân tay cho Thế Tôn, thưa rằng:
-- Thật kinh hoàng thay, bạch Thế Tôn! Thật kỳ dị thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, màu da Thế Tôn nay không còn thanh tịnh, trong sáng, tay chân rã rời (sithilàni), nhăn nheo, thân được thấy còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn.-- Sự thể là vậy, này Ananda, tánh già nằm trong tuổi trẻ; tánh bệnh ở trong sức khỏe; tánh chết ở trong sự sống. Như vậy, màu da không còn thanh tịnh, trong sáng, tay chân rã rời, nhăn nheo, thân còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn. Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:
-- Bất hạnh thay tuổi già! Đáng sợ thay cuộc sống! Tuổi già làm phai nhạt sắc diện của màu da. Hình bóng trước khả ý, nay già đã phá tan! Ai sống được trăm tuổi, cuối cùng cũng phải chết, không bỏ sót ai, tất cả bị phá sập.
Rồi Thế Tôn lành bệnh. Sau khi lành bệnh không bao lâu, đức Phật rời khỏi tịnh xá và ngồi trên ghế đã soạn sẵn, trong bóng mát của ngôi tịnh xá và Ngài dạy: “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi”. Này Ananda, Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng.
Trong mùa an cư lần cuối của Đức Thế Tôn tại làng Baluvà ngoại ô của thành phố Tỳ Xá ly (Vesàli), Ngài đã khen ngợi thành phố này như sau:
Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường khất thực trở về Ngài nói với tôn giả Ananda: “- Này Ananda, hãy lấy tọa cụ. Ta muốn đi đến điện thờ Càpàla, để nghỉ trưa”.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.
Thế Tôn đi đến điện thờ Càpàla, khi đến Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Tôn giả Ananda đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một bên:
- Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sàttambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả ái thay điện thờ Càpàla. Tại điện thờ này Ngài dạy:
Mạng sống có hạn hay vô hạn,
Tu sĩ từ bỏ, không kéo dài.
Nội tâm chuyên nhất trú thiền định.
Như tháo áo giáp đang mang mặc.
Sau đó Đức Thế Tôn đi đến Giảng đường Kùtagàra, rừng Đại Lâm cũng trong thành Tỳ Xá Ly và Ngài tuyên bố:
Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao,
Từ biệt các Ngươi, Ta đi một mình.
Tự mình làm sở y cho chính mình,
Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,
Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.
Ai tinh tấn trong pháp và luật này
Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.
Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường khất thực trở về, Thế Tôn nhìn Vesàli với cái nhìn của con voi chúa rồi nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, lần này là lần cuối cùng, Như Lai nhìn Vesàli. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Bhandagàma, Hatthigam... Ambagama... Jambugama..., hãy đi đến Bhoganagara. Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại Bhoganagara cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda: “Này Ananda, chúng ta sẽ đi đến Pàvà” (220 cây số từ Vesali đến Pavà). Tại đây Ngài thọ nhận sự cúng dường của thợ sắt Cunda, đây là bửa ăn cuối cùng của Đức Thế Tôn:
Tôi nghe: Sau khi dùng cơm tại nhà thợ sắt Cunda.
Cơn bệnh khốc liệt bỗng khởi lên, gần như chết đến nơi.
Sau khi cùng món ăn loại mộc nhĩ.
Kịch bệnh khởi lên nơi bậc Đạo Sư.
Điều phục bệnh hoạn, Thế Tôn dạy rằng:
"Ta đi đến thành Kusinàra".
Này Ananda, hôm nay khi canh cuối cùng đã mãn, tại Upavattana ở Kusinàrà, trong rừng Sàla của dòng họ Mallà, giữa hai cây sàla song thọ, Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến sông Kakutthà. Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến con sông Kakutthà, xuống sông tắm và uống nước rồi lội qua bờ bên kia, đi đến rừng xoài và tại đây chúng ta hãy đi qua bờ bên kia sông Hirannavati, đến ở Kusinàrà - Upavatama - rừng Sàlà của dòng họ Màllà (20 cây số từ Pava đến Kusinàrà). Và tại đây Ngài dạy : Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ: này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên nhau chánh niệm và giác tỉnh. Và Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên dạy các ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật". Đó là lời cuối cùng Như Lai.
Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô biên xứ. Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô biên xứ. Xuất Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô Sở hữu xứ, Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Diệt thọ tưởng định.
Khi ấy tôn giả Ananda nói với tôn giả Anuruddha:
- Thưa Tôn giả, Thế Tôn đã diệt độ.
- Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn chưa diệt độ. Ngài mới nhập Diệt thọ tưởng định. Rồi xuất Diệt thọ tưởng định, Ngài nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Vô sở hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài nhập Thức vô biên xứ định. Xuất thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô biên xứ định. Xuất Hư không vô biên xứ, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài lập tức diệt độ.
Trong KINH PHÁP CÚ KỆ SỐ *153 – 154. “Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống cứ tái diễn mãi ! Hỡi kẻ làm nhà! Nay Ta gặp được ngươi rồi. Ngươi không thể làm nhà nữa. Bao nhiêu rui mè của ngươi đều gãy cả rồi, kèo cột của ngươi đã tan vụn cả rồi. Trí Ta đã đạt đến vô thượng Niết bàn, bao nhiêu dục vọng đều dứt sạch cả”.
Đức Thế Tôn nói sau khi đắc đạo dưới cây bồ đề. Nói lên điều nầy, đức Phật nhằm minh chứng cho chúng ta thấy, Ngài đã trải qua bao kiếp sống nổi trôi trong vòng luân hồi bất tận. Hai chữ lang thang là một trạng từ diễn tả nhiều kiếp thăng trầm không định hướng. Điều đó, phải chăng, đức Phật đã minh xác một cách rõ ràng rằng, con người là một hiện thể luôn luôn tái sinh. Chết không phải là mất hẳn, như phái Đoạn Diệt đã chủ trương.
Tới đây, Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
Nhân duyên thù thắng là tôi gặp được Trưởng Lão Hoà Thượng Thích Tâm Châu tháng 11 năm 1985 tại Chùa Nam Quang, Portland, Oregon, sau khi Ngài thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới vào năm 1984, thời gian này thành phần tu sĩ rất thiếu và do vậy Ngài bổ sung các cư sĩ vào các chức vụ thuộc Hội Đồng Điều Hành kể cà Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành, tôi cũng được thỉnh cử vào Hội Đồng Điều Hành giữ chức vụ Phó Tổng Thư Ký từ năm 1985.
Sau đây là cuộc du hành 40 năm cuối cùng trên thế gian kể từ khi Ngài rời Việt Nam năm 1975 của Trưởng Lão Thích Tâm Châu là Nghiệp Sư và cũng là Ân sư của tôi,. Theo tông phái ngoài Bắc ( Tào Động) , Bổn sư chỉ dành riêng cho Đức Thế Tôn, riêng thầy tế độ và dạy dỗ trong đạo được gọi là Nghiệp sư ( Trung và Nam được gọi thầy của mình là Bổn sư).
Năm 1975, Ngài đi hành đạo tại Pháp, tạo dựng chùa Từ-Quang tại Nice, Pháp-quốc, thành lập Hội Phật-Giáo Thế-Giới Phụng-Sự Xã-Hội tại Pháp, Lãnh-Đạo Tinh-Thần Hội Phật-Giáo Pháp-Việt chùa Hồng-Hiên (Fréjus - France)
Năm 1976: Lãnh-Đạo Tinh-Thần kiêm Hội-Trưởng Hội Phật-Giáo Pháp-Việt và tích-cực kiến-thiết cảnh-trí chùa Hồng-Hiên. Cũng từ năm này trở đi, Ngài thường có mặt tại Canada và Mỹ, hướng dẫn tinh-thần cho các Phật-tử Việt-Nam xa quê, khuyến khích xây dựng Phật-đường và tu học Phật-pháp.
Năm 1977: Cùng chư Phật-tử xây dựng chùa Liên-Hoa, Niệm Phật-đường Chân-Như (Toronto), hướng dẫn Phật-tử và khích lệ tạo-dựng chùa Phật-Quang (S. Houston. Texas).
Năm 1978: Hướng-dẫn Tinh-thần chùa Liên-Hoa (Brossard) và chùa A-Di-Đà (Toronto).
1979: Chủ-trì Đại-Hội thành-lập Giáo-Hội Tăng Già Việt-Nam Hải Ngoại tại chùa Giác-Hoàng (Washington D.C., Hoa Kỳ) và đảm-trách ngôi vị Thượng-Thủ Giáo Hội. Lãnh-đạo tinh-thần Cộng Đồng Giáo-Hội chùa Giác-Hoàng, chùa Phật-Quang (Houston, Texas). Và, từ năm này trở đi, Ngài thường đi giảng, trao truyền quy-giới, khuyến hóa cho việc xây dựng Phật-đường như chùa Giác-Quang (Oklahoma) v.v...
Năm 1981: Lãnh-đạo tinh-thần kiêm Chủ-Tịch Công Đồng Giáo-Hội chùa Giác-Hoàng (Hoa-Thịnh-Đốn) và chùa Liên-Hoa (Canada). Năm này Ngài bắt đầu đi thăm Úc-Châu.
Năm 1984 : Thành lập Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Trên Thế-Giới và đảm-trách ngôi vị Thượng-Thủ. Ngài đã thành lập các Thành-viên cho Giáo-Hội tại các nước, như chùa Phật-Quang, chùa Phật-Đà ở Úc. Chùa Giác-Hoàng, Phật-Quang, Pháp-Quang, Nam-Quang, Quán-Âm, Pháp-Hoa... ở Mỹ. Chùa Hồng-Hiên, Từ-Quang, Quán-Âm... ở Pháp và Chùa Liên-Hoa, Từ-Ân, Di-Đà, Tổ-Đình Từ Quang, Chân-Quang... ở Canada.
1989: Đệ nhất thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Giáo Hội Tăng Già Thế Giới.( cuộc họp các ngày 8,9,10,11 tháng 5 năm 1966 , đã thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới ( World Buddhist Sangha Council , viết tắt là WBSC ) , trong trang mở đầu Hiến Chương của Giáo Hội ngày 16 tháng 5 năm 1966 ghi rằng Trưởng Lão Thích Tâm Châu là Chủ Tịch Ủy Ban Soạn Thảo Hiến Chưong và cũng là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Lãnh Đạo.
2000: Ngài chứng minh đạo sư Khánh Thành Bảo Tượng Đức Quan Thế Âm tại Trung Tâm Phật Giáo – Chùa Việt Nam, Houston, Texas, Hoa Kỳ. và suốt 14 năm Ngài được cung thỉnh ngôi vị Chứng Minh Đạo Sư cho Lễ Hội Quan Âm – Ngày Hành Hương và Cầu Nguyện.
2008: Tạo dựng Tu-viện Viên-Quang tại South Carolina, Hoa-kỳ..
2012: Nhân dịp Đại Hội Khoáng Đại Kỳ 10 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới, Ngài chứng minh tối cao Đại Lễ khánh thành Tu Viện Viên Quang.
2013: Ngài tổ chức lần đầu tiên Pháp Hội Đại Bi tại Tu Viện Viên Quang.
2014: Ngài tổ chức Đại Hội Thường Niên lần thứ 30 và Đại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới.
Mùng 1 Tết năm Quý Tỵ 2013 nhằm ngày Chủ Nhật ngày 10 tháng 2, vào chiều ngày 12 tháng 2 sau Tết được 2 ngày, tôi chưa kịp gọi để chúc Tết Thầy tôi, hàng năm thông thường Tôi gọi cho Ngài vào buổi chiều tối mùng 3 Tết theo tục lệ người Việt là Mùng 1 Tết Cha, mùng 2 Tết Mẹ, Mùng 3 Tết Thầy, khi mọi Phật sự Tổ đình được nhẹ nhàng, nhưng Ngài gọi cho tôi, sau phần chúc Tết của tôi và sau những lời thăm hỏi, Ngài hỏi :
“Này ông, sang năm 2014, Thầy tính tổ chức an cư và kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội tại Tu Viện Viên Quang ông nghĩ thế nào? Thật ra mọi Phật sự trong Giáo Hội, Ngài đều gọi cho tôi để giúp ý kiến, hàng năm tôi về an cư tại Tổ Đình trong hai tuần, tôi và Ngài thường đi bộ ra Công viên họp bàn việc Phật sự chứ không phải tại Tổ Đình vì sợ nghe lén. Khi nghe đến đây tôi giật mình, còn hơn cả năm nữa, sớm quá, Ngài lo xa quá. Thầy tôi thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới năm 1984 và năm 1985 tạo mãi một building tại Montreal, Canada để thành lập Tổ Đình Từ Quang mà tôi có phụ giúp một tay.
Sau biến cố chính trị và quân sự ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng triệu người Việt bỏ quê Cha đất Tổ ra đi tìm Tự do, trong đó có một số Tăng Ni và Phật tử. Để duy trì tín ngưỡng, phong tục tập quán, vào ngày 5 và 6 tháng 5 năm 1979, Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại được thành lập tại Chùa Giác Hoàng, thủ đô Hoa Thịnh Đốn Hoa Kỳ. Sau 5 năm hành đạo và để mở rộng tầm sinh hoạt, một Đại Hội gồm có 12 thành viên Phật Giáo được tổ chức vào ngày 9,10,11 tháng 11 năm 1984 tại Chùa Liên Hoa, thành phố Brossard, Tỉnh bang Québec, Gia Nả Đại. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới ra đời và Đại Hội cung thình Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu lên ngôi vị Thượng Thủ.( Cho đến năm 2013, Giáo Hội có đến 42 thành viên, trong khi đó tại hải ngoại có trên dưới 200 ngôi chùa, tự viện và các hội Phật giáo)
Tôi vội trả lời: Bạch Ngài, thời gian trôi mau quá, 30 năm rồi còn gì, theo con nghĩ Giáo Hội nên tổ chức sau mùa Vu Lan, vì con cái Phật tử được nghỉ hè và chư Tôn đức cũng vừa chấm dứt mùa An cư và hết bận rộn sau mùa Vu Lan, con thấy hợp thời nhất. Nơi chốn, đúng nhất là tổ chức tại Tổ Đình Từ Quang vì đó là cơ quan trung ương của Giáo Hội, nhưng theo con nghĩ ( tôi hiểu ý của Ngài khi Ngài hỏi tôi câu hỏi đó vi sau Đại Hội Khoáng Đại kỳ 10 năm ngoái 2012 của Giáo Hội tại Tu Viện Viên Quang quá thành công và Ngài rất thích cảnh quan của Tu Viện vì Ngài rất thích cây rừng và rất thoáng) , sự đi lại của quý Tăng Ni và Phật tủ dễ dàng và tham dự đông đảo hơn vì không cần phải có giấy Thông Hành (passport) để đi qua Canada, như vậy Tu Viện Viên Quang là đúng chổ để tổ chức. Bạch Cụ, con chỉ có một chút ý kiến, tuỳ Giáo Hội và Cụ quyết định ( trong Giáo Hội, tôi là đệ tử xưng hô với Ngài bằng Sư Cụ nhưng Cụ không rầy la).
Kính xin sơ lược về Tu Viện Viên Quang: Vào năm 2008, nhân duyên do một Phật tử cúng dường 5 mẫu đất tại địa chỉ 1044 Galway Lane, Clover, South Carolina, qua năm 2009 và 2010 Ngài tạo mãi thêm 18 mẫu quanh khu rừng đó tổng cộng là 23 mẫu, đến năm 2011 hòan tất Bảo Pháp Đường gồm có Tổ Đường, 20 tăng phòng, phòng bếp, vệ sinh. Năm 2012, hoàn tất Viên Quang Đại Giác Điện nơi thờ Đức Bổn Sư và có thể chứa trên 200 Phật tử khi hành lễ. Giáo Hội đã tổ chức Lễ Khánh Thành và Lễ An vị 20 Thánh tượng và cũng như Lễ Khai Mạc Đại Hội Khóang Đại Kỳ 10 vào ngày 4,5,6,7,8 tháng 7 năm 2012, thành công rất viên mãn. Như vậy kể từ 2008, Trưởng lão Hòa Thượng không còn du hành qua Úc Đại Lợi hàng năm (có 4 thành viên), Ngài thường hành đạo tại đây khoảng gần 2 hay 3 tháng để tránh tuyết muà Đông tại Canada và sau đó Ngài về lại Tô Đình khoảng 2 tuần trước Tết Nguyên Đán. Trong suốt thời gian xây dựng Tu Viện Viên Quang, để xúc tiến công việc nên cứ vài tháng Ngài bay qua, bay về Tổ Đình khoảng cách 810 miles (1300 Km) và 2 giờ 30 phút bay, Ngài ở Tu Viện nhiều hơn vì Ngài thich cây cồi và không khí trong lành của khu rừng và cũng là hạnh Bồ Tát cuối cùng của Ngài.
Tôi cũng thấy lo cho sức khoẻ của Ngài sau khi Giáo Hội tổ chức Lễ Cửu Tuần Đại Thọ năm 2010 , trong 5 năm cuối đời sức khỏe của Ngài kém đi nhưng Ngài không bao giờ lơ là về Phật sự, ngoài việc xúc tiến xây dựng tại Tu Viện và Phật sự tại Tổ Đình, nơi nào cần thì Ngài đến, nơi nào thỉnh thì Ngài đi ( Ngài tâm sự với tôi rằng tâm trí của Ngài mạnh hơn cái thân tứ đại này, cuộc đời của Thầy chi lo cho Phật sự). Thật sự là như vậy, tôi xin kể sơ một ví dụ: nhân ngày 1 và 2 tháng 12 năm 2012, Sư bà Giác Nghiêm có tổ chức Lễ Khánh Thành Quán Âm Phổ Chiếu Ni Viện tại Maryland, sau các nghi lễ trong 2 ngày và chứng minh lễ Trai tăng cúng dường, Ngài và huynh đệ chúng tôi về khách sạn để nghỉ trưa, tôi cũng mệt quá vì thay mặt Ngài làm chủ lễ nên sau khi về phòng tôi thiếp đi, khoảng 3 giờ chiều sau khi tôi thức dậy tôi qua phòng của Ngài để thăm viếng nhưng không thấy Ngài trả lời và cũng như các phòng của các huynh đệ, tôi ngạc nhiên là Ngài và các huynh đệ không có mặt tại khách sạn, tôi vội xuống phòng tiếp tân của khách sạn ngồi chờ thì khoảng 15 phút sau, Ngài và các huynh đệ vừa về đến, tôi mới tìm hiểu là có một gia đình đến khác sạn thỉnh Ngài đi an vị Phật tại tư gia cách xa khoảng một giờ lái xe như vậy Ngài không nghĩ một tí nào hết gần 2 tiếng ruỡi đồng hồ, Quý vi thấy không Ngài chỉ làm việc Phật mà thôi dù cho thân tứ đại của Ngài rất mệt mõi.
Thông Bạch số 1780/VP/TT ngày 25 tháng 3 năm 2014 quyết định:
1/ Đại Hội Thường Niên, Kỷ Niệm 30 Năm Thành Lập Giáo được tổ chức vào ngày 30,31 tháng 8 năm 2014 tại Tu Viện Viên Quang 1038-1044 Galway Lane, Clover, South Carolina, Trưởng Ban Tổ chức là Thượng Tọa Thích Chân Tôn.
2/ Tuần lễ An cư được tổ chức tại Tổ Đình Từ Quang vào ngày 01 tháng 7 năm 2014
Sau hai tuần an cư tại Tổ Đình và họp các kế hoạch với Ngài, tôi liền bay về Tu Viện Viên Quang để thành lập Ban Tổ Chức. Đại Hội và Lễ Kỷ Niệm 30 năm Thành Lập Giáo Hội thành công viên mãn với trên 200 chư Tôn Đức Tăng Ni và trên 1000 Phật tử tham dự trong 2 ngày, cũng trong Đại Hội này Giáo Hội đã quyết định tấn phong tôi giáo phẩm Hoà Thượng. Sư phụ tôi vô cùng hài lòng sự thành tựu Phật sự này.
Sau Tết Ất Mùi khoảng tháng 3/2015, Ngài gọi tôi từ Tu Viện Viên Quang với lời trách yêu: “Ông cứ để Ông già này làm việc có mỗi một mình, qua đây Thầy có ít việc muốn bàn với ông”. Trong hơn 1 tháng và một tuần, tôi với Ngài thảo luận về hoằng dương Phật pháp tương lai tại hải ngoại, tổ chức của Giáo Hội trong tương lai, sắp xếp nhân sự tại Tổ đình Từ Quang, Tu Viện Viên Quang v..v..Sau hơn 1 tháng và 1 tuần, Ngài tâm sự với tôi tất cả mọi việc trong quá khứ, những gì tôi thắc mắc hỏi Ngài, Ngài trả lời rất tường tận kể cả việc Ngài đi về đâu sau cuộc sống này, một buổi tối cuối cùng tại Tu Viện, tôi lên phòng của Ngài đãnh lễ để sáng mai lúc 4 giờ sáng tôi ra phi trường bay về Phoenix chuẩn bị làm Phật đản cho chùa Việt Nam, Ngài nói như trối với tôi: ông về soạn thảo và viết các đề án các chưong trình như đã bàn thảo và còn mắng yêu và giận lẫy: “thôi ông về đi để mặc ông già này ở một mình”. Tôi lạy Cụ mà lòng buồn không tả vì những câu nói, những lời dạy, những lời tâm sự của Ngài trong suốt một tháng như lời trối trăng cuối cùng. Đúng là cái điềm mà tôi nghĩ và cuối cùng cũng xảy ra.
Qua ngày 1 tháng 7 năm 2015, tôi về Tổ đình Từ Quang tại Montreal để an cư và tham dự Đại hội thường niên hàng năm và cũng có nhiều câu hỏi với Ngài để bổ túc vào các đề án đang soạn thảo cho tương lai.
Trong suốt 2 tuần an cư từ ngày 5/7 – 19/7 , Ngài bệnh rất nặng ra vào bệnh viện nhiều lần và sau đó bác sĩ cho biết là Ngài bị ung thư tụy tạng giai đoạn cuối. Trong thời gian này tôi thay thế Ngài điều khiển khoá Nghiên Tu và chủ lễ hành tuần.
Mặc dầu đang bệnh nặng và sự khuyên can của các Bác sĩ và chư Tăng nhưng sau an cư tại Tổ Đình Ngài vẫn bay về Viên Quang chứng minh tổ chức lần đầu tiên trường Hạ cho Ni giới tại Tu Viện Viên Quang South Carolina Hoa Kỳ từ 26/7- 2/8, sau đó bệnh của Ngài trở nặng và Ngài về lại Tổ Đình Từ Quang, Canada ngày 4/8 tịnh dưỡng.
Tối Chủ Nhật ngày 16 tháng 8 Ngài chủ toạ buổi họp tăng ni trong tông môn bàn về chương trình và ban tổ chức tang lễ.
Thứ Hai ngày 17 tháng 8 vào bệnh viện để rút nước trong bụng để khỏi bị trướng, Ngài còn tỉnh táo và ngỏ ý muốn về Tổ Đình. Vào buổi chiều Ngài bắt đầu vào tình trạng lúc tỉnh lúc mê.
Sáng Thứ Ba ngày 18 tháng 8 thỉnh Ngài về lại phòng Phương Trượng từ Bệnh viện, Tăng Ni đang niệm Phật, Ngài đang đi vào cơn mê tôi cầm tay Ngài thấy nhiệt độ rất cao.
Thứ Tư ngày 19 tháng 8, nhiệt độ của Ngài lên tột đĩnh, Ngài hôn mê, Chư Tăng và Ni đang hộ niệm.
Rạng sáng Thứ Năm ngày 20 tháng 8, tôi vào thăm đãnh lễ và cầm tay Ngài thì cảm thấy lạnh, không còn sốt, hơi thở rất nặng và dồn dập, tôi có chụp hình lần cuối và sau đó tôi có hẹn với Nhà Quàn 9 giờ sáng để ký hợp đồng đã bàn thảo và đồng ý hôm qua tại Tổ đình. Tại Nhà quàn tôi sửa đổi chương trình rất nhiêù trong đó thay đổi quan tài đẹp và trang trọng hơn, khi ghi số serial của quan tài vào biên bản thì tôi có linh tính Ngài rất hài lòng về việc tôi chọn quan tài mới thì điện thoại từ Tổ đình gọi cho biết Ngài ra đi , tôi nhìn đồng hồ lúc đó là 10 giờ 20 phút sáng.
Kính lạy giác linh Thầy, những lời trối trăng của Thầy, những đề án, chương trình, những lời tâm sự, con xin chôn xuống huyệt mộ sâu. Sau đây con đính kèm sơ lược sự thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới
GIÁO-HỘI PHẬT-GIÁO VIỆT NAM TRÊN THẾ GIỚI
WORLD VIETNAMESE BUDDHIST ORDER
ORDRE BOUDDHIQUE VIETNAMIEN MONDIAL
1978 Rue Parthenais, Montreal, QC. H2K-3S3, Canada.
Tel: (514)525-8122 – Email: todinhtuquang@gmail.com
________________________________
SƠ LƯỢC 31 NĂM
HOẠT ĐỘNG PHỤNG SỰ ĐẠO PHÁP & DÂN TỘC CỦA
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRÊN THẾ GIỚI
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch: Chư Tôn Thiền Đức trong HĐLĐ, HĐĐH
Kính thưa: Quý thành viên của Giáo Hội
Hôm nay Chủ Nhật ngày 29 tháng 11 năm 2015 tại Chùa Bảo Quang, thành phố Santa Ana, California là VP của HĐĐH do HT Thích Quảng Thanh đương kim Chủ tịch. Giáo Hội PGVNTTG tổ chức Lễ Bách Nhật Trai Tuần cố Trưởng lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu. Được Tăng sai, tôi xin thay mặt GH tuyên đọc Sơ lược hoạt động Đạo pháp & Dân tộc trong 31 năm qua của GH kể từ ngày thành lập.
Kính bạch quý Ngài,
Kính thưa quý vị,
Sau biến cố chính trị 1975, để kế tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp của Đức Thế Tôn và chư lịch đại Tổ sư, cũng như xiển dương truyền thống đạo Phật Việt Nam nơi xứ người, bảo vệ và phát huy tinh thần phụng sự đạo pháp, dân tộc và nhân loại. Giáo Hội được thành hình như sau:
Ngày 05.06.1979 Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo VN Hải ngoại được thành lập tại Chùa Giác
Hoàng, Washington DC
Ngày 11.11.1984 Giáo Hội Phật Giáo VN Trên Thế Giới được thành lập tại Chùa Liên Hoa,
Brossard, Quebec, Canada. Hiến chương được ban hành ngày 11.11.1984 sau đó được tu chỉnh như sau:
1/ Tu chính lần thứ nhất: tại Đại hội khoáng đại kỳ II tại Chùa Phật Quang, Houston, Texas.
2/ Tu chính lần thứ hai: tại Đại Hội khoáng đại kỳ III tại Chùa Từ Quang,
Nice, Pháp quốc.
3/ Tu chính lần thứ ba: tại Đại hội khoáng đại kỳ V tại Tổ đình Từ Quang,
Montreal, Canada.
4/ Tu chính lần thứ tư: tại Đại hội thường niên 2003 và hoàn chỉnh trong Đại hội bất thường ngày 14.11.2004 tại Tổ đình Từ Quang.
5/ Tu chính lần thứ năm: tại Đại hội thường niên và Kỷ niệm 30 năm Thành lập Giáo Hội ngày 01.09.2014 tại Tu Viện Viên Quang, Clover, South Carolina, ban hành Điều Lệ Giáo hội và Nội quy với Giáo Chỉ số 364/VP/TT ngày 11.11.2014.
Và Giáo Chỉ số 365/VP/TT ngày 16.11.2014 điều chỉnh nhân sự trong cơ quan lãnh đạo nhiệm kỳ 2014-2016.
Ngày 20.10.1986 Đại hội khoáng đại kỳ II, tại Houston, Texas
Ngày 03.09.1988 Đại hội khoáng đại kỳ III, tại Nice, Pháp quốc
Ngày 02.07.1990 Đại hội khoáng đại kỳ IV, tại New Jersey, Hoa kỳ
Ngày 03.07.1993 Đại hội khoáng đại kỳ V, tại Tổ đình Từ Quang, Canada, sau khi thay đổi khoáng đại từ 2 năm thành 3 năm.
Ngày 30.06.1996 Đại hội khoáng đại kỳ VI, tại Chùa Chân Quang, Vancouver BC, Canada
Ngày 26.11.2000 Đại hội khoáng đại kỳ VII, tại Tu Viện Phật Quang, Melbourne, Úc Châu, sau khi thay đổi khoáng đại từ 3 năm thành 4 năm.
Ngày 27.11.2004 Đại hội khoáng đại kỳ VIII, tại Anaheim Convention Center do Chùa Bảo Quang, Santa Ana, California tổ chức.
Ngày 18.07.2008 Đại hội khoáng đại kỳ IX, tại Tổ đình Từ Quang, Montreal Canada.
Ngày 04.07.2012 Đại hội khoáng đại kỳ X, tại Tu Viện Viên Quang, Clover, South Carolina
nhân dịp Đại lễ khánh thành Tu Viện.
Và hằng năm vào đầu tháng 7 dương lịch trong 31 năm qua, cũng là ngày lễ Độc Lập tại Hoa kỳ cũng như Canada, Giáo hội tổ chức Đại hội Thường Niên để ôn lại Phật sự cùng với khóa nghiên tu an cư cho hàng tứ chúng tại Tổ đình Từ Quang, Montreal, Canada.
Như điều 5 của Hiến chương, tôn chỉ của Giáo hội là:
a/ Liên kết các tổ chức Phật giáo Việt nam trên Thế giới, không phân biệt xuất gia, tại gia - cùng chung một lý tưởng phụng sự Phật Pháp trong tinh thần quốc gia Việt Nam.
b/ Tôn trọng quyền tự quyết của các tổ chức Phật giáo gia nhập Giáo hội.
Với mục đích trong Điều 6 của Hiến chương là:
a/ Phụng sự và truyền bá chánh pháp của Đức Phật.
b/ Duy trì và phát triển văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc Việt Nam.
c/ Kiến tạo tự viện-đào tạo tăng ni.
d/ Hổ trợ tinh thần, vật chất để củng cố và tăng trưởng các tổ chức Phật giáo.
e/Thực hiện các hoạt động từ thiện và xả hội theo tinh thần từ bi của Phật giáo.
f/ Liên lạc thân hữu với các tổ chức Phật giáo trên thế giới.
Trong suốt 31 năm qua, Giáo hội đã thực hiện điều 5 và điều 6 của Hiến chương rất khiêm tốn, nhưng không hổ thẹn vì không trái với tôn chỉ và mục đích đã đề ra. Trong ba mươi mốt năm qua, chưa phải là dài nhưng với những con người tị nạn, vốn liếng chúng ta chỉ có một tấm lòng, nhất tâm phụng sự cho đạo pháp và dân tộc cũng như chúng sinh trong tinh thần từ, bi, hỷ, xả.
Về nội bộ:
- Giáo hội luôn luôn quan tâm các Phật sự của các chùa thành viên, thường văn thư khích lệ, thăm viếng, hướng dẫn Phật pháp, hoá giải những bất đồng..v..v..
- Ủng hộ, lo lắng và duy trì phát triển tổ chức Gia đình Phật tử Thiện sinh
- Các Phật sự của các Giáo hội bạn đều tham dự nếu có thư cung thỉnh
Về ngoại giao:
- Gởi những văn thư để cầu nguyện, hô hào đóng góp giúp đở các thiên tai, bảo lụt, động đất, sóng thần v..v..
- Thập niên 1980, gởi những văn thư can thiệp cho các thuyền nhân đến các quốc gia có thẩm quyền..v..v..
- Lên tiếng qua các Quyết nghị mong mỏi nhà cầm quyền Việt nam, hiểu rõ nguyện vọng của người dân, thay thế chế độ dân quyền để không còn bất công hầu bảo tồn và xây dựng đất nước - chống mọi mưu lược ngoại xâm..v..v.. đem lại tự do, dân quyền, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Trong 31 năm qua, dưới sự lãnh đạo tối cao của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ Giáo Hội, đã lèo lái con thuyền của Giáo Hội, vượt qua những ảnh hưởng sóng gió Phật giáo trong thời đại nhiều điên đảo, thiếu nhân sự, thiếu lục hòa, và hoàn cảnh địa phương và còn rất nhiều yếu tố khác nữa v..v.. Mặc dầu Giáo Hội chúng ta quá nhỏ, quá ít nhân sự, thiếu kém về mọi mặt, nhưng 31 năm trôi qua, coi như yên lặng, không bị xáo trộn, làm được một ít Phật sự thật khiêm tốn, chúng ta cũng cảm thấy hoan hỷ và an ủi.
Giáo hội chúng ta đã mất đi một vị lãnh đạo, trong tương lai, chúng ta cần phải suy tư và cẩn trọng nhiều hơn nữa để duy trì, phát triển Giáo Hội hầu báo đáp công đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu.
Chúng tôi xin kết thúc với lời đạo từ của Trưởng Lão Hòa Thượng nhân dịp kỷ niệm 30 năm Thành Lập Giáo Hội vào ngày 31.08.2014 tại Tu Viện Viên Quang và đây cũng là di chúc của Ngài cho Giáo Hội:
“ Muốn duy trì và phát triển Giáo Hội của chúng ta:
Mỗi vị Tăng Ni trong Giáo Hội cần thực hiện lời giáo huấn của Tổ Quy Sơn: “Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức”. Có nghĩa là: “Phần nội tâm của mỗi vị, cần phải cố gắng, đem công năng khắc phục các vọng niệm: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… nơi mình. Phần đối ngoại của mỗi vị, cần phải mở rộng đức tính hòa hợp không tranh cải, tức là thực hiện tinh thần từ bi hỷ xả và sáu pháp lục hòa kính”.
- Cố gắng mở các khóa tu học, giảng pháp thường xuyên tại các chùa
- Khuyến thỉnh chư Tăng Ni thực tu, thực học nội điển và ngoại điển
- Cố gắng mở trường Phật học để đào tạo nhân tài
- Tôn trọng luật pháp và hòa đồng vào văn hóa, phúc lợi địa phương
- Liên lạc các tổ chức Phật giáo, làm các việc từ thiện xả hội
- Tránh sự tranh chấp.Tận tâm làm trọn chức vụ được giao phó
- Tránh cao vọng. Điều chỉnh Hiến Chương cho thích hợp hoàn cảnh”
Đây là lời tâm nguyện và di chúc của Trưởng Lão Hòa Thượng và cũng là kim chỉ Nam của Giáo Hội chúng ta trong tương lai, trong buổi lễ bách nhật trai tuần ngày hôm nay, Tăng Ni và Phật tử chúng ta cũng ngậm ngùi thắp một nén tâm hương và nguyện xin:
Y Giáo Phụng Hành.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Tác Đại Chứng Minh
HT Thích Chân Tôn
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Phật Sự
- Tag :
- HT Thích Chân Tôn