Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hai Người Cha Thời Đức Phật

Thursday, June 19, 202519:04(View: 403)
Hai Người Cha Thời Đức Phật

Hai Người Cha Thời Đức Phật


Nguyên Giác

 hinh phat



Lòng của người cha lúc nào cũng thương con. Ca dao thường nói rằng công cha như núi Thái Sơn. Nhìn như thế, là nhìn từ ngoài vào. Nhưng bản thân các người cha vẫn nghĩ rằng hy sinh cho con chỉ là chuyện bình thường, không có gì gọi là nặng nhọc như vác núi, gánh rừng. Trong Kinh Tạng Pali, có kể hai truyện về hai người cha thời Đức Phật. Qua hai truyện này, chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Chánh pháp.

Truyện thứ nhất chúng ta kể nơi đây là người cha của Ni trưởng Anopamā. Thân phụ của Ni trưởng là ông Megha, một  người có tài sản lớn. Khi là một thiếu nữmới lớn, cô Anopamā được nhiều hoàng tử và công tử tới, xin cầu thân. Các chàng trai quý tộc sẵn sàng đem kho báu tới hiến tặng người cha để được rước cô Anopamā về làm vợ. Tuy nhiên, trong một cơ duyên được đảnh lễ Đức Phật, cô được ngài giảng cho một bài pháp.  Và khi Đức Phật kết thúc bài pháp, cô Anopamā tức khắc chứng quả Bất Lai, tức là quả vị thứ ba. Trường hợp này rất là hy hữu, vì cô Anopamā lần đầu nghe pháp, chưa từng tu tập; như thế, chỉ có thể giải thích rằng tự thân cô đã tu nhiều kiếp trước, và lúc đó kể như gần sạch tham sân si.

Chuyện này, về sau, được Trưởng lão ni Anopamā  kể lại trong bài thơ Thig 6.5. Và được nhà sư Bhikkhu Indacanda dịch ra tiếng Việt như sau:

6.5. Anopamā

“Tôi đã được sanh ra trong gia đình cao quý, có nhiều của cải, có tài sản đồ sộ, được thành tựu về màu da và dáng vóc, con gái ruột của Megha.

Được những người con trai của các vị vua ao ước, được những người con trai của các nhà triệu phú khao khát, họ đã gởi sứ giả đến gặp cha tôi: ‘Hãy gả Anopamā cho chúng tôi.

Cô con gái Anopamā ấy của ông được cân nặng chừng nào, tôi sẽ trao vàng và ngọc tám lần so với chừng ấy.’

Tôi đây, sau khi lắng nghe đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Vô Thượng, tôi đã đảnh lễ hai bàn chân của Ngài rồi đã ngồi xuống một bên.

Ngài Gotama ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi. Ngồi ở tại chỗ ấy, tôi đã chạm đến quả vị thứ ba.

Sau đó, tôi đã cắt tóc, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đã được làm khô héo.”

Trưởng lão ni Anopamā đã nói những lời kệ như thế.”

 

 

Truyện thứ nhì là về một người cha: Long vương, tức là Vua rồng. Truyện này là từ Kinh Pháp Cú bài kệ 182. Chuyện này là về Vua rồng Erakapatta.

Khi trú ngụ gần Baranasi, Đức Phật đã đọc Bài kệ 182 của Kinh Pháp Cúliên hệ đến Erakapatta, vua của loài rồng.

Ngày xưa có một vị vua rồng tên là Erakapatta. Trong một kiếp trước của mình vào thời Đức Phật Ca Diếp, ông đã là một nhà sư trong một thời gian dài. Vì lo lắng về một tội nhỏ mà ông đã phạm trong thời gian đó, ông đã tái sinh thành một con rồng. Là một con rồng, ông đã chờ đợi sự xuất hiện của một vị Phật. Erakapatta có một cô con gái rất xinh đẹp, và ông đã sử dụng cô như một phương tiện để tìm kiếm Đức Phật. Ông cho biết bất kỳ ai có thể trả lờicác câu hỏi của cô đều có thể lấy cô làm vợ. Hai lần mỗi tháng, Erakapatta bắt cô nhảy múa ngoài trời và hát lên những câu hỏi của mình. Nhiều người cầu hôn đã đến để trả lời các câu hỏi của cô với hy vọng lấy cô, nhưng không ai có thể đưa ra câu trả lời đúng.

Một ngày nọ, Đức Phật nhìn thấy một thanh niên tên là Uttara trong linh ảnh. Ngài cũng biết rằng chàng thanh niên sẽ đạt được Quả Tu Đà Hoàn liên quan đến những câu hỏi do con gái của Vua rồng Erakapatta đặt ra. Lúc đó, chàng thanh niên đã trên đường đến gặp con gái của Erakapatta. Đức Phật đã ngăn chàng lại và dạy chàng cách trả lời những câu hỏi. Trong khi chàng đang được dạy, Uttara đã đạt được Quả Tu Đà Hoàn. Bây giờ vì Uttara đã đạt được Quả Tu Đà Hoàn, chàng không còn muốn kết hôn với cô công chúa rồng nữa. Tuy nhiên, Uttara vẫn đi trả lời những câu hỏi vì lợi ích của nhiều chúng sinh khác.

Bốn câu hỏi nêu ra là:

1. Ai là người cai trị?

2. Người bị sương mù của ô nhiễm đạo đức bao trùm có được gọi là người cai trị không?

3. Người cai trị nào thoát khỏi những ô nhiễm đạo đức?

4. Người như thế nào bị gọi là kẻ ngu?

Câu trả lời cho những câu hỏi trên là:

1. Người kiểm soát được sáu căn là người cai trị.

2. Người bị sương mù của ô nhiễm đạo đức bao phủ thì không được gọi là người cai trị; người xa lìa khỏi tham ái được gọi là người cai trị.

3. Người cai trị thoát khỏi tham ái thì thoát khỏi các ô nhiễm đạo đức.

4. Người khao khát các thú vui nhục dục bị gọi là kẻ ngu.

Sau khi có được câu trả lời đúng cho những câu hỏi trên, công chúa Long nữ đã hát lên những câu hỏi liên quan đến lũ lụt của ham muốn nhục dục, của sự tái sinh, của tà giáo và của sự vô minh, và cách để vượt qua chúng. Chàng trai Uttara đã trả lời những câu hỏi này theo lời dạy của Đức Phật.

Khi Vua rồng Erakapatta nghe những câu trả lời này, ông biết rằng một vị Phật đã xuất hiệntrên thế gian này. Vì vậy, ông đã yêu cầu chàng trai Uttara đưa ông đến gặp Đức Phật. Khi nhìn thấy Đức Phật, Erakapatta kể với Đức Phật rằng ông đã từng là một nhà sư vào thời Đức Phật Ca Diếp, rằng ông đã vô tình làm gãy một ngọn cỏ khi đang đi thuyền, và rằng ông đã lo lắng về tội nhỏ đó vì đã không làm hành động giải tội như đã quy định, và cuối cùng là ông đã tái sinh thành một con rồng như thế nào. Sau khi nghe ông kể, Đức Phật đã nói với ông rằng thật khó để được sinh ra trong thế giới loài người, và khó được sinh ra trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện hoặc trong thời gian còn lưu truyền Giáo lý của các vị Phật.

Sau đó, Đức Phật đã nói bài kệ như sau:

Bài kệ 182: Khó sinh được làm người; khó khăn là cuộc sống của phàm nhân; khó có được cơ hội để nghe Phật pháp; khó có một vị Phật xuất hiện.

Bài thuyết pháp trên đã mang lại lợi ích cho rất nhiều chúng sinh. Vua rồng Erakapatta là một loài vật nên không thể đạt được Quả Tu Đà Hoàn ngay tại đó.

Bài kệ này được Thầy Minh Châu dịch như sau.

182. "Khó thay, được làm người,

Khó thay, được sống còn,

Khó thay, nghe diệu pháp,

Khó thay, Phật ra đời!"

Dựa theo bài Kệ này, tất cả chúng ta đều có may mắn hơn rất nhiều chúng sinh khác: sinh làm người, và nghe Phật Pháp. Tất cả những người cha trên cõi này đều muốn để lại gia sản quý giá nhất cho con mình: trong đó, không có kho tàng nào quý giá hơn Phật pháp.

Hôm nay, bài này được viết trong Ngày Lễ Cha, để mời gọi tất cả những người cha hãy khuyên nhủ con mình tin theo Chánh pháp, dùng thân giáo để hướng dẫn con mình sống theo Chánh pháp, và hãy mượn các phương tiện truyền thông mang ngọn đèn Chánh pháptới rọi sáng tất cả những nơi tăm tối trong đời này. Hạnh phúc là những người cha biết tìm raPhật pháptài sản quý nhất trong cõi này, để trao lại cho con mình. Cũng y hệt như ông trưởng giả trong Kinh Pháp Hoa, giấu viên ngọc trong góc áo của cậu con trai bụi đời.

Và cũng hạnh phúc là những người con nhận ra rằng cha mình đã dạy cho con từ những ngày thơ ấu về niềm tin Tam Bảo, đã dạy cho con biết tin sâu vào nhân quả để không bao giờ dám làm ác, đã dạy cho con biết từ bi với người và yêu thương với đời, và đã dạy chữ cho con bằng cách đánh vần theo những dòng kinh để không bao giờ trôi lạc trong cõi này.

 

THAM KHẢO:

Trưởng Lão Ni Kệ, Thig 6.5. Bản Việt dịch Bhikkhu Indacanda:

https://suttacentral.net/thig6.5/vi/indacanda

Kinh Pháp Cúbài Kệ 182:

https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=182

Kinh Pháp Cú, bản dịch của Thầy Minh Châu:

https://thuvienhoasen.org/p15a7962/pham-11-20

 

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 27)
Hầu như ai cũng công nhận rằng kinh sách cổ xưa đã trải qua nhiều đời và phải chịu sự sửa đổi, thêm bớt, hoặc hoàn toàn do ngụy tạo.
(View: 340)
Như một người lạc lối trong rừng hoang nguy hiểm chợt cảm thấy an ổn khi tìm thấy được đường ra, Bồ-đề Nguyện và Bồ-đề Hành
(View: 364)
Chúng ta ở đây để chia sẻ suy nghĩ của mình về những gì Phật giáo có thể mang lại trong thời đại Trí tuệ nhân tạo.
(View: 566)
Mở đầu Bản “Giải thích Sáu mươi kệ tụng biện luận lý tính duyên khởi của Long Thọ”, ngài Nguyệt Xứng viết:
(View: 611)
Để phân tích sâu hơn câu chuyện "Bốn cô vợ" qua lăng kính Phật giáo, tôi sẽ mở rộng các khía cạnh triết lý,
(View: 536)
Là một thuật ngữ âm Hán – Việt, có lẽ khó hiểu với một số Phật tử cũng như những người trẻ.
(View: 807)
Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp.
(View: 759)
Trong suốt khoảng thời gian mười lăm thế kỷ khi Phật giáo có mặt ở Ấn Độ, đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về...
(View: 672)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng.
(View: 743)
Đức Phật (khoảng năm 450 trước Công nguyên) là người có giáo lý tạo thành nền tảng của truyền thống Phật giáo.
(View: 838)
Chỗ ở của người tu thường là nơi thanh vắng, núi rừng. Thời Đức Phật còn tại thế cũng thường ở trong những khu rừng.
(View: 698)
Trên con đường tiến hóa của mình, loài người tiến theo hướng càng ngày càng thiện lành hơn.
(View: 984)
Đầu đà tăng còn gọi là khổ hạnh tăng. Hán dịch chữ Tăng, không chỉ riêng tăng nhân Phật giáo mà nhằm chỉ vị tăng của các tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
(View: 980)
Truyền Đăng sinh năm 1554, họ Diệp, hiệu Vô Tận, biệt hiệu Hữu Môn.
(View: 1120)
Tính nối kết là một đặc trưng của kinh Pháp Hoa. Ở đây chỉ trích ra một ít câu để làm rõ.
(View: 1106)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(View: 1429)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày.
(View: 1772)
Vạn sự vạn vật hay các pháp hữu vi đều từ duyên mà khởi lên, chứ không có tự tánh.
(View: 1427)
Trong bài này sẽ nghiên cứu về chương thứ nhất, phẩm Tựa, của kinh Pháp Hoa để nhìn thấy phần nào tính vũ trụ của kinh
(View: 1607)
Khi một thiền giả theo đuổi con đường giới, vị ấy nên khởi sự thực hành khổ hạnhđể kiện toàn các đức đặc biệt ít muốn, biết đủ
(View: 1795)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ...
(View: 1878)
Hai thời công phu còn gọi là triêu mộ khóa tụng (朝暮课诵) hoặc nhị khóa, tảo vãn khóa, đều áp dụng cho hàng xuất giatại gia mỗi ngày.
(View: 2069)
Người trí tạo thiên đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình ngay đây và sau này.
(View: 1829)
Chúng ta kinh nghiệm thế giới vật chất bằng sáu giác quan của mình: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
(View: 1526)
Ta đã già rồi ư? Sự vô thường của thời gian quả thật không gì chống lại được.
(View: 1887)
Kinh Hoa Nghiêm còn gọi kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, là một kinh điển trọng yếu của Đại thừa. Bản kinh mô tả cảnh giới trang nghiêm huyền diệu
(View: 1643)
Từ bây giờ, là người mới xuất gia, nhiệm vụ của các con là sửa đổi và phát triển bản thân.
(View: 1951)
Việt Namquốc gia ở vùng Đông Nam Á cho nên chúng ta may mắn được hấp thụhai trường phái Phật giáo lớn nhất của thế giới,
(View: 1849)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(View: 2237)
Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giảthể đạt được là quả vị A-La-Hán.
(View: 1877)
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta được phát khởi từ
(View: 1885)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tốsâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã)
(View: 2099)
Đế Nhàn, gọi đầy đủ là Cổ Hư Đế Nhàn, là tổ sư đời thứ 43 Thiên Thai tông, một bậc cao Tăng cận đại, phạm hạnhcao khiết, giỏi giảng kinh thuyết pháp, độ chúng rất đông.
(View: 1661)
Giải thoát thì không có trước có sau, không có thừa! Và không có để lại bất kỳ cái gì.
(View: 1899)
Bản kinh chúng ta đang có là bản kinh 262 trong Tạp A Hàm Hán Tạng. Trong Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya) của tạng Pāli có một kinh tương đương, đó là kinh Chiên Đà.
(View: 1944)
Thực tại được kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân Phật, được diễn tả nhiều trong các bài kệ của phẩm đầu tiên Thế Chủ Diệu Nghiêm.
(View: 2009)
Gần 26 thế kỷ về trước, sau khi kinh qua nhiều pháp môn tu tập nhưng không thành công, Đức Phật đã quyết định thử nghiệm chân lý bằng cách tự thanh tịnh lấy tâm mình.
(View: 1423)
Tín là niềm tin. Niềm tin vào Tam Bảotin tưởng vào Phật, Pháp, Tăng.
(View: 2021)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian đem lại an vui cho tất cả chúng sanh. Đạo Phật là đạo của giác ngộgiải thoát.
(View: 1447)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 1394)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 1277)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 2070)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 1648)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 1958)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 2212)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 2475)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 2618)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 2294)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 2239)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 1701)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 1699)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 1536)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 1441)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 2812)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 2329)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 2285)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 2089)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 1915)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM