VƯỢT
KHỎI GIÁO ÐIỀU (BEYOND DOGMA)
Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma đời thứ 14
Việt
Dịch: Tâm Hà Lê Công Ða
PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ
NHÂN QUYỀN
VÀ BẤT BẠO ÐỘNG
Hôm
nay chúng ta nói chuyện về nhân quyềnvà bất bạo động. Cá nhân tôi thành thật mà
nói không xem việc thực hành bất bạo động là một hành động duy nhất để chống
lại bạo động. Ðối với tôi, bất bạo động chỉ xứng đáng được coi là chủ nghĩa hoà
bình bất bạo động khi nó được xây dựng trên lòng nhân ái và vị tha. Vấn đề nhân
quyền cũng thế.
Xa
lìa khổ đau và an hưởng hạnh phúc là nỗi khát vọng chung của tất cả mọi con
người. Khi kinh nghiệm bản thân cho ta những khả năng để hiểu được rằng ta
không cô đơn trong ước vọng xa lánh khổ đau và được sống hạnh phúc, lúc đó ta
sẽ có đủ năng lực để phát triển lòng từ bi, tức là ước nguyện được thấy mọi
người giải thoát khỏi đau khổ. Ðồng thời ta cũng sẽ học được ý nghĩa của thương
yêu, tức là ước nguyện được thấy mọi người tìm được hạnh phúc. Những khái niệm
căn bản này có thể tạo cho ta mối quan tâm và chú trọng đặc biệt hơn về nhân
quyền. Thế cho nên tôi nghĩ rằng tôn trọng nhân quyền và thực thi bất bạo động
có mối liên hệ mật thiết với yêu thương và từ bi.
Theo
thiển ý của tôi, phẩm chất của lòng vị tha này là cơ bản. Không những nó cần
thiết cho việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa các tôn giáo trên thế giới,
mà còn ươm đầy cuộc sống đời thường của ta với an lạc và hạnh phúc. Thế nên
thảo luận về những chủ đề này, tôi nghĩ là mình có thể bắt đầu bằng cách
nói về lòng yêu thương.
Xin
được trở lại với đề tài ban đầu. Không cần biết đến chủng tộc, học vấn, tôn
giáo, mức sống của chúng ta như thế nào, chúng ta đều bình đẳng khi mới sinh ra
-chúng ta đều là những con người và đều có chung ước vọng bẩm sinh là xa lánh
khổ đau và tìm kiếm hạnh phúc. Hơn thế nữa, con người đều có quyền được sinh ra
để sống hạnh phúc và giải phóng khỏi mọi khổ đau. Tuy nhiên trong thực tế, mặc
dù mọi người đều chia xẻ ước vọng này một cách đồng đều, bản chất của xã hội
cho thấy có người lại được hưởng nhiều lợi quyền hơn kẻ khác và thông thường kẻ
nghèo thường hay bị thiệt thòi, lợi dụng. Dù đứng trên quan điểm đạo đức hay
thực dụng, đây là một sai lầm lớn lao. Thực tế cho thấy trong bất kỳ xã hội nào
hễ càng bất công bao nhiêu thì càng có nhiều người khốn khó bấy nhiêu, những
vấn nạn xã hội sẽ có cơ bùng nổ và xã hội đó chắc chắn sẽ ngày càng bệnh
hoạn hơn.
Ðể
bắt đầu, điều quan trọng là bạn phải thấu hiểu được rằng hạnh phúc của chính cá
nhân bạn liên quan đến người khác biết chừng nào. Con người tự bản chất là một
sinh vật xã hội và hạnh phúc của mỗi chúng ta đều tùy thuộc vào kẻ khác. Trong
một xã hội mà phúc lợi của mọi người đều được đảm bảo và một bối cảnh tốt đẹp
được xây đắp, dĩ nhiên sự lương hảo của mỗi cá nhân cũng sẽ được triển khai.
Không bao giờ có chuyện hạnh phúc của mỗi cá nhân hoàn toàn độc lập với kẻ
khác; thế nên nếu chúng ta đảm bảo được phúc lợi cho tha nhân, có nghĩa là cùng
một lúc chúng ta đang bắt tay tạo dựng nên những hoàn cảnh tốt đẹp cho phúc lợi
của chính cá nhân mình.
Mỗi
cá nhân thường cảm thấy mình hạnh phúc nhất, thư giản nhất khi họ có thể chia
xẻ được niềm hạnh phúc và sự tin cậy với kẻ khác, đó là bản tánh chung của con
người. Chúng ta cần sự nâng đỡ của đồng loại và mong muốn có nhiều bạn bè. Mỗi
khi chúng ta có dịp được cười đùa với nhau, ta vui hưởng niềm sảng khoái chung.
Cá nhân tôi luôn luôn thích thú mỗi lần gặp bạn bè cho dù họ có mang lại lợi
ích cho tôi hay không. Thực tế cho thấy cười chính là liều thuốc bổ, mang lại
cho ta niềm thư giản một cách tự nhiên.
Tuy
nhiên nếu chúng ta chỉ chú trọng đến mình, chỉ nghĩ đến cá nhân mình, đến phúc
lợi của riêng mình, luôn bác khước, khai thác, và lợi dụng kẻ khác, với cung
cách cư xử đó ta tự cắt lìa mình với thế giới bên ngoài và điều đó sẽ làm cho
chúng ta mất hạnh phúc. Như vậy, một điều hiển nhiên là càng quan tâm đến tha
nhân, lo lắng cho phúc lợi của họ bao nhiêu, ta sẽ càng có thêm nhiều bạn bè và
cảm thấy được đối xử ân cần, nồng hậu bấy nhiêu.
Trong
số những bạn bè của ta không phải là không có những người chỉ đến với ta do
tiền bạc và địa vị mà ta có, họ không phải là những bằng hữu chân thực mà thật
ra là bạn của túi tiền, thế lực của ta. Một điều chắc chắn là bao lâu mà ta còn
tiền bạc và thế lực họ sẽ còn quanh quẩn bên cạnh ta, thế nhưng một lúc nào đó
khi ta rơi vào tình trạng suy sụp, họ sẽ biến mất như một chiếc cầu vồng, chứng
tỏ rằng họ không phải là những người bạn trung thành, đáng tin cậy. Ðến khi ta
cần họ, chạy đi kiếm hoặc tìm cách gọi điện thoại cho họ, những kẻ được gọi là
bạn bè này bỗng dưng biến mất tiêu không biết ở phương trời nào! May mắn lắm
nếu được họ trả lời điện thoại thì cũng chỉ là những lời ngắn gọn, nhát gừng!
Ðể
có được bạn bè chân thực và được họ thật tình thương mến, ta cũng phải thương
mến và bày tỏ mối thiện cảm của ta đối với họ. Trong trường hợp này, ta sẽ có
được vô số bằng hữu chân tình.
Nếu
chúng ta bày tỏ lòng nhân ái đối với tha nhân, đặc biệt chiếu cố đến những kẻ
bất hạnh cũng như những người mà quyền sống không được tôn trọng, chính ta sẽ
tạo dựng cho mình nền tảng của hạnh phúc và thái độ sống đúng đắn có giá trị.
Hãy lấy trường hợp của cá nhân tôi, những kinh nghiệm bản thân mà tôi đã trải
qua làm một thí dụ. Tôi là một người dân mất nước, và đáng buồn hơn, dân
tộc tôi đang phải sống trong cảnh thống khổ. Tây Tạng đang bị tàn phá. Tôi đang
phải đối diện với những trạng huống kinh khủng cũng như đã từng kinh qua những
kinh nghiệm bi thảm. Tuy nhiên xin cảm ơn bằng hữu và những tấm lòng ưu ái mà
họ dành cho tôi, nhờ đó tôi vẫn có thể tiếp tục cuộc sống bình thường.
Tôi
nghĩ rằng bất bạo động có nhiều cấp độ khác nhau. Ngay cả được che dấu bởi động
lực đen tối và một tâm hồn đạo đức giả, gian dối và ác độc, một người vẫn có
thể nói ra được những lời dịu ngọt, dễ thương cũng như biểu lộ những cử chỉ
thân thiện, như biếu tặng quà cáp chẳng hạn. Hành động này chỉ bất bạo động ở
ngoài mặt; trong thực tế đây là một hành động đầy ác tâm. Trái lại, do sự
thúc đẩy bởi ý hướng muốn giúp đỡ tha nhân, hoặc vạch cho người khác thấy những
lỗi lầm của họ, có thể ta có những ngôn ngữ hoặc hành động xem ra cộc cằn thô
lỗ, nhưng tận trong thâm tâm, đó là một hành vi bất bạo động.
Thế
cho nên chính động cơ thúc đẩy ở đàng sau mới quyết định tính cách bạo động hay
bất bạo động của một hành động. Thái độ bất bạo động được thúc đẩy bởi thiện ý
dù được thể hiện ra hành động hay bằng lời nói cũng đều mang lại lợi ích. Thế nhưng khuyến khích, thúc đẩy tinh thần bất bạo động và hành động bất bạo
động cũng chưa đủ để loại trừ bạo động. Trên tất cả, ta phải khích
lệ mọi người tự mình nuôi dưỡng lòng thương yêu và trìu mến đối với tha
nhân.
Trong
thời đại này quả là một điều cần thiết để tạo dựng nên một bầu khí hoà điệu và
đoàn kết hơn giữa các tôn giáo khác nhau trên thế giới. Ðã có quá nhiều yêu tố
làm phân cách xã hội chúng ta: giàu nghèo, khuynh hướng chính trị, v.v... Tôn
giáo vì thế có mặt để giúp con người học cách biết tự chế hơn, làm tiết giảm
tinh thần chấp trước và đối kháng cũng như giúp đỡ họ tìm kiếm sự an
bình. Thế nên nếu tôn giáo trở thành một cái cớ để gây thêm chấp trước,
hận thù,hoặc tranh dành bè phái thì quả là một thảm trạng đáng buồn.
Dĩ nhiên mỗi tôn giáo đều có những bản sắc đặc biệt riêng. Trên bình diện siêu
hình có thể còn có những khác biệt lớn lao hơn giữa các tôn giáo. Tựu
trung tôn giáo có thể được phân ra làm hai nhóm chính: Một số tôn giáo gắn chặt
vào niềm tin về một đấng Thượng Ðế Sáng Tạo và phần còn lại thì không tin như
thế. Ðứng trên quan điểm triết học, đây là một sự khác biệt lớn lao. Tuy nhiên,
tất cả các tôn giáo chính đều đồng ý với nhau về sự quan trọng của lòng thương
yêu, nhẫn nhục và khoan thứ. Mặc dù mỗi tôn giáo có thể trình bày bản
chất xác thực của tình thương yêu đó một cách khác nhau, tất cả đều khẳng
định sự cần thiết của tình thương yêu và nhân ái, tất cả đều khuyên dạy tín đồ
của mình nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp này bằng nhiều cách khác nhau. Như
thế đã có một căn bản tương đồng rất có ý nghĩa giữa các tôn giáo trên thế
giới.
Thực
tế cho thấy một trong những cỗi nguồn chính của sự hoà điệu giữa các tôn giáo
là tính cách phổ quát của những lời dạy về tình thương yêu; chúng ta càng
sớm nhận ra mục đích của tình thương yêu đó và bản chất qúy giá của nó chừng
nào, ta sẽ càng cảm thấy kính trọng hơn các tôn giáo khác chừng nấy.
Trong
cuộc sống hàng ngày, hạnh phúc tùy thuộc lớn lao vào trạng thái tâm hồn của
chúng ta. Những ngày mà tâm hồn ta thư thái yên tĩnh sẽ là những ngày rất hạnh
phúc. Trái lại những ngày ta mất đi niềm thanh thản, ta sẽ cảm thấy bất
hạnh. Ðiều đó thật quá rõ ràng.
Bây
giờ vấn đề đặt ra là mục tiêu của đời sống là gì? Tôi luôn cho rằng đó là hạnh
phúc. Tại sao? Bởi vì ngay cả những người đang chấp nhận một cuộc sống tu hành,
cũng không ngoài mục đích đi tìm kiếm hạnh phúc. Họ coi tôn giáo như là phương
cách tốt nhất để đạt đến hạnh phúc cho nên đã chọn lựa theo đuổi một hành trình
tâm linh như thế . Cũng vậy, một người chấp nhận làm việc trong địa hạt kinh tế
(hay bất cứ lãnh vực nào khác) bởi vì họ nghĩ rằng đó là cách thế tốt đẹp nhất,
hữu hiệu nhất để hoàn tất đời mình.
Cho
dù ta không thể biết chắc chắn những gì xảy ra trong tương lai, hầu như mọi
người đều tin rằng mọi chuyện rồi sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Mặc cho bao nhiêu vấn
nạn mà ta phải đương đầu trong suốt cuộc đời, ta vẫn tiếp tục hy vọng rằng mọi
việc sẽ êm xuôi trong tương lai. Cái ngày mà chúng ta ngưng hy vọng,
chúng ta có nguy cơ rơi vào trạng thái tuyệt vọng hoặc đi đến chỗ tự vẫn.
Ðó là lý do tại sao tôi cho rằng sự kiếm tìm hạnh phúc đã mang lại ý nghĩa cho
đời người.
Có
người quan niệm hạnh phúc trong tầm phụ thuộc của vật chất hay những yếu tố bên
ngoài; chẳng hạn như xem giàu có và quyền lực là những chỉ dấu của hạnh
phúc. Quả thật sống trong tiện nghi vật chất, được kề cận bên cạnh bạn bè
và gia đình, vui thú với tiếng tăm danh vọng và những cuộc đàm luận hay
ho, đều là những yếu tố góp phần tạo nên hạnh phúc cho ta. Tuy nhiên nếu
xem những yếu tố này là gốc rễ chính của hạnh phúc, thì tất cả những ai đang
thụ hưởng giàu sang, danh vọng, được bao quanh bởi một bầu khí dễ chịu phải là
người đang sống hạnh phúc. Thực tế không phải là như thế! Ðiều này cho thấy mặc
dù những điều kiện thuận lợi này có thể góp phần tạo nên hạnh phúc cho ta,
chúng không phải là những nguyên nhân cơ bản, không thể không có.
Ta
không cần biết đến chuyện con người đang hưởng thụ những tiện nghi vật chất đầy
đủ hay không, nếu tâm hồn họ an bình, thư giản và cảm thấy hài lòng với chính
mình, họ là những người đang sống trong hạnh phúc; và ngược lại. Như thế, một
điều rất rõ ràng sự an bình nội tâm là cỗi nguồn của hạnh phúc. Chúng ta có thể
nhận thấy điều này trong cuộc sống đời thường. Có những ngày tâm hồn chúng ta
cảm thấy thư thái, hạnh phúc, cho dù bất chợt gặp phải khó khăn hay trở thành
nạn nhân của một chuyện rủi ro, ta vẫn chấp nhận chúng một cách dễ dàng không
mảy may khó chịu. Thế nhưng trong những ngày mà tâm hồn ta buồn lo, xao động,
dù chỉ một chuyện không đáng kể xảy ra cũng gây nên những khủng hoảng lớn khiến
ta vô cùng bực bội.
Một cách tổng quát, thoạt nhìn vào các xã hội phát triển Tây phương với tất cả
những tiện nghi của đời sống hiện đại được cung ứng mà kết quả tạo nên một cuộc
sống tuyệt vời về mọi mặt. Thế nhưng nếu bạn có thì giờ để đàm luận riêng
tư với những cư dân của các xã hội này, bạn sẽ thấy tâm hồn của họ bị ô
nhiễm bởi những tư tưởng hoài nghi, nhận thức sai lầm, những âu lo, ganh ghét
và tranh chấp tị hiềm.
Như
vậy làm thế nào để chúng ta có thể phục hồi được sự an lạc của cái tâm
mình? Bằng ma túy hay rượu chè chăng? Chắc chắn là không rồi! Còn nếu
mang chuyện này đi than phiền với một vị y sĩ, như chúng ta thường làm đối với
những bệnh hoạn thể chất: “Bác sĩ à, tôi đang lâm bệnh tinh thần, xin bác
sĩ tìm cách chữa trị cho tôi!” Chắc chắn là vị bác sĩ sẽ trả lời
bằng cách lắc đầu, cho biết là ông ta sẽ không làm gì được và chỉ cho ta đi chỗ
khác. Một cách tóm tắt, hạnh phúc là cái mà chúng ta chỉ có thể tạo dựng lên từ
chính bên trong nội tâm mình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta thực
hiện được việc này? Ðâu là con đường tốt nhất để đạt đến hạnh phúc?
Ðể
trả lời những câu hỏi này xin hãy lấy những kinh nghiệm của cá nhân tôi làm một
thí dụ. Một số đông bạn bè và bản thân tôi đều đi đến một kết luận chung: Chúng
ta càng phát triển tình thương yêu, trìu mến đến tha nhân, lòng khao khát phụng
sự họ bao nhiêu, ta càng cảm thấy tâm hồn của mình an lạc bấy nhiêu. Khi chúng
ta có ý nguyện giúp đỡ tha nhân, những thái độ cư xử của ta đối với họ sẽ tích
cực hơn. Khi tâm ta không còn ganh tỵ, ta sẽ thấy không cần thiết phải dấu diếm
họ bất cứ chuyện gì. Với sự hiện diện của họ, chúng ta cảm thấy là mình sẽ bớt
dè dặt và tâm hồn cởi mở hơn. Ngược lại, trong quan hệ đối xử với kẻ khác nếu
thâm tâm ta luôn nuôi dưỡng những ý tưởng độc hại của ganh tỵ và dối trá, tự
nhiên là chúng ta sẽ bị ngăn cách và cô lập, chúng ta sẽ luôn luôn là kẻ đứng ở
ngoại biên của mọi vấn đề.
Khi
chúng ta có ý hướng giúp đỡ tha nhân, mối quan hệ giữa ta với họ sẽ trở nên
thoải mái dễ dàng hơn. Ngược lại, chúng ta sẽ vẫn luôn nhút nhát, lưỡng lự và ở
trong trạng thái cảnh giác cao độ mỗi khi tiếp cận tha nhân. Khi tâm ta muốn
giúp đỡ kẻ khác, ta sẽ bớt đi nỗi sợ hãi và lo âu. Khi tâm ta mang ý hướng tốt
đẹp, ta sẽ cảm thấy tự tin và mạnh mẽ hơn. Bằng cách này, chúng ta sẽ học để
nhận ra được lòng nhân ái qúy giá như thế nào, có giá trị đối với ta ra sao. Và
bây giờ, vấn đề là làm thế nào để phát khởi lòng nhân ái?
Tất
cả mọi người -ở trong bất kỳ tình huống nào- đều có khả năng tự nhiên
phát khởi lòng từ bi ở trong tâm mình. Từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào
đời, uống bầu sữa mẹ, lòng từ bi này đã bắt đầu lớn dậy ở trong ta. Ðây chính
là biểu trưng của tình thương yêu, trìu mến. Nếu đứa trẻ cảm thấy không gần gũi
với người mẹ, nó sẽ không chịu bú sữa; cũng thế nếu người mẹ không có tình yêu
thương trìu mến vô bờ đối với đứa con, bầu sữa của bà sẽ cạn nguồn. Tôi cho
rằng những hành động của buổi đầu đời này đã thiết định nên nền tảng của toàn
bộ cuộc sống chúng ta.
Mọi
người cũng đồng ý rằng một đứa trẻ được trưởng thành trong một bầu khí gia
đình đầy ắp thươgn yêu, trìu mến nó sẽ có cơ may tự cảm thấy mãn
nguyện, học hành giỏi dang và có một cuộc sống hạnh phúc; trong khi đó một đứa
trẻ mà tuổi ấu thơ thiếu tình thương mến luôn xao lảng trong chuyện học hành.
Bởi vì chúng thiếu những hổ trợ tình cảm cần thiết trong tuổi trưởng thành, tất
cả đều có khuynh hướng tạo nên những vấn nạn rắc rối trong suốt cuộc đời.
Ðến
giây phút cuối của cuộc đời, trước giờ lâm tử, kẻ sắp chết phải bỏ lại tất cả
những người yêu dấu nhất. Thế nhưng y sẽ rất sung sướng nếu có một người bạn
thân kề cận bên cạnh dù y biết rằng điều đó không mang lại một mục đích gì cả.
Bởi lẽ đó, tôi cho rằng từ lúc sinh ra cho đến lúc nhắm mắt, trong suốt cuộc
đời ta, nhu cầu cho và nhận tình cảm thương yêu trìu mến là nhu cầu căn bản của
con người.
Ta
biết rằng tình trạng tâm hồn của chúng ta có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thể
chất và chức năng của các tế bào cấu thành thể xác của chúng ta. Cụ thể như khi
tâm hồn chúng ta thư giản, thoải mái, hệ thống tuần hoàn sẽ họat động một cách
bình thường; các bộ phận sẽ làm việc tốt đẹp và khó bị lão hoá. Ngược lại, nếu
chúng ta sống trong lo âu phiền muộn, giận dữ , sự căng thẳng tâm lý này sẽ tác
động lên các hệ thống điều hòa cơ thể mà kết quả là chúng ta sẽ bị bệnh cao
huyết áp. Cơ thể của những người này cũng mau chóng già cỗi. Một tâm hồn
khủng hoảng chẳng giúp ích gì cho sức khoẻ của thể xác, trong khi đó một
tâm hồn thư giản sẽ trợ lực cho cơ thể một cách toàn hảo.
Một
khi đã nhận thức được những lợi điểm của lòng nhân ái, chúng ta cũng nên tìm
cách để tu dưỡng nó. Ðồng thời nếu ta nhìn thấy được sự độc hại gây ra bởi
những tình cảm đối nghịch với lòng nhân ái, chẳng hạn như giận dữ, ganh tỵ và
đặc biệt là lòng hận thù, ta cũng phải tìm cách loại bỏ và ngăn ngừa không để
chúng trở thành một phần trong bản tánh của ta.
Con
người thường yêu bạn ghét thù. Thế nhưng kẻ thùlà gì? Phải chăng kẻ thù là
người tìm mọi cách để hảm hại ta, thể xác, tài sản, gia đình, bằng hữu ta, nói
tóm lại là những gì mang đến cho ta hạnh phúc? Chúng ta có thể coi
tài sản, danh vọng, bạn bè, thân quyến của ta, v.v... là nguồn gốc thường tình
của hạnh phúc, và như vậy bất cứ ai làm thiệt hại những gốc nguồn này, thói
thường được coi là kẻ thù.
Nhưng
ta cũng đã biết rằng gốc nguồn chính của hạnh phúc là sự an bình nội tâm. Những
ai đã tu tập để phát triển được sự an bình này, những ai đã có một vài kinh
nghiệm tu chứng sẽ không dễ dàng bị phiền nhiễu bởi loại kẻ thù thông thường
này. Tuy nhiên, hận thù, ác tâm, và ganh tỵ sẽ huỷ diệt ngay lập tức trạng thái
yên tĩnh tâm hồn này. Kẻ thù đích thực của ta, như vậy không ai khác hơn là ác
tâm. Kẻ thù ngoại tại có thể là kẻ thù thực sự của ta ở một giai đoạn nhất
định, nhưng một điều mà ai cũng có thể thấy, trong một tương lai nào đó thay vì
hảm hại ta có thể họ lại quay trở thành những người bạn giúp đỡ ta. Thế nhưng
những kẻ thù nội tại vẫn luôn luôn là những kẻ thù -suốt từ đầu, giữa chừng,
cho đến cuối; nó không bao giờ mang đến lợi ích gì cho ta cả. Bởi thế thật là
một điều hoàn toàn vô lý và đầy mâu thuẫn khi một đằng thì ta chạy đi tìm hạnh
phúc, còn đằng khác thì ta mở cửa cho lòngï đố kỵ và độc ác vào trú ngụ
trong tâm ta, những tên thủ phạm chính đang tìm cách diệt trừ hạnh phúc của ta.
Làm
thế nào để chúng ta có thể tiêu diệt được kẻ thù này, tức là cái mà ta gọi là
hận thù? Phương thuốc đánh thẳng vào sự thù ghét là lòng nhẫn nhục, là sự thực
hành hạnh nhẫn nhục. Những lúc mà chúng ta cảm thấy bất ổn, bị giày vò
bởi những khổ đau tinh thần là lúc mà ta thường sinh ra phản ứng thù ghét. Như
vậy muốn thoát khỏi tâm trạng thù ghét chúng ta phải sống và cư xử như thế nào
đó để không còn mang lấy những khổ đau tinh thần. Chúng ta phải làm tất cả mọi
chuyện có thể được để xa lìa khổ đau; khổ đau phải được ngăn ngừa. Thế cho nên
một điều rất quan trọng là việc chuyển hóa hoàn cảnh, tốt hay xấu, thành một cơ
hội để cải thiện chúng. Khi một điều bất hạnh xảy đến với ta mà ta không ngờ
tới, như bệnh hoạn chẳng hạn, nếu chúng ta chỉ biết nghĩ đến mình, nỗi khó khăn
sẽ trở nên to lớn bội phần và chúng ta coi đây là chuyện có vẻ như hoàn toàn
bất công đối với ta. Thế nhưng nếu chúng ta nghĩ đến tha nhân, đến những vấn
nạn của họ, dù chỉ trong một khoảnh khắc, chúng ta sẽ thấy rằng tình huống của
mình không có gì là đặc biệt.
Ý
niệm về cái gì cấu thành vấn nạn là một ý niệm hoàn toàn tương đối. Trong nỗi
khó khăn ta vẫn có thể tìm thấy những khía cạnh tích cực. Cùng một lúc, một
cảnh huống nào đó có thể được xem là bi đát quá sức chịu đựng của con người
nhưng cũng có thể được xem là mang đến nhiều phúc lợi. Tất cả đều tùy thuộc vào
cách nhìn vấn đề của chúng ta. Nhưng cho dù trường hợp nào đi nữa, ta phải xem
rằng mọi chuyện không bắt đầu có vẻ như vượt khỏi sức chịu đựng của ta. Khi đối
đầu với vấn nạn, nếu ta nhìn chúng qúa gần, ta sẽ không thấy gì cả và chúng sẽ
xuất hiện không đúng nguyên vẹn như thực tế; điều này khiến chúng trở thành có
vẻ như khó chịu đựng nổi đối với ta. Tuy nhiên nếu chúng ta chịu khó lùi lại,
chúng ta sẽ có khả năng thẩm định chúng và rồi vấn nạn sẽ không còn trầm
trọng như ta tưởng.
Ðể
có thể hiểu thấu đáo những hậu quả tai hại của việc từ khước tha nhân cũng như
những phúc lợi do lòngï quan tâm đến người khác mang lại, điều tốt nhất là ta
phải biết dừng lại và quán chiếu trong từng giây phút theo cách thức sau đây.
Chúng ta hãy bước ra khỏi cái tôi của mình, đóng vai một quan sát viên ngoại
cuộc hay, thí dụ như, là một thành phần thứ ba đối với một nhóm người đang có
nhu cầu cần giúp đỡ; trong một thí dụ khác, quán chiếu đến cái tôi thường
nhật, cái tôi thông thường đó -như một người nào khác, một người hoàn toàn vị
kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình mà chẳng quan tâm đến ai khác. Trong khi tự
quán sát mình như vậy ta sẽ lần hồi thấy một cách rõ ràng hơn những tai hại của
thói vị kỷ và tâm ta sẽ tự động hướng về những người đang có nhu cầu cần giúp
đỡ lúc nào không hay.
Nếu thực tập suy nghĩ theo cách này, ta sẽ tự động bắt đầu hiểu biết hơn về những
hệ quả tiêu cực của thói quen chỉ biết nghĩ đến mình cũng như những phúc lợi
của việc quan tâm đến kẻ khác. Nó sẽ giúp ta giảm thiểu được mãnh lực lôi cuốn
của chấp trước và thù ghét để từ đó phát triển tình thương yêu và lòng quan tâm
đến tha nhân. Hãy cảm tạ phương pháp tu tập này, sự chuyển hóa sẽ dần dần
diễn biến trong ta. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận -đừng bao giờ mong chờ sự
chuyển biến sẽ xảy ra trong nháy mắt, như khi ta dang tay bật một ngọn đèn! Hãy
luôn nhớ rằng, điều quan trọng là ta cần phải có thời gian để có thể tu tập một
cách chậm rãi và tiệm tiến.
Tôi
tin rằng đi theo con đường này để phát triển tình thương yêu và lòng từ bi cũng
như tiết giảm giận dữ, đố kỵ là một hoạt động tâm linh phổ quát không cần phải
đòi hỏi vào bất cứ niềm tin tôn giáo nào. Ðối với tôi, quả là điều lầm lẫn khi
tin rằng lòng nhân ái là sản phẩm đặc quyền của tôn giáo vì như thế sẽ có người
không thèm đếm xỉa đến nó nếu họ không thích thú đến khía cạnh tâm linh. Mọi
người đều có quyền có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, thế nhưng bao lâu mà
chúng ta vẫn còn tìm kiếm hạnh phúc và tiếp tục sống trong xã hội này, tình
thương yêu và trìu mến là điều không thể thiếu.
Ðể kết luận, tôi xin được nói rằng gốc rễ căn bản của việc tôn trọng nhân quyền
và bất bạo động là lòng yêu thương , nhân ái đối với tha nhân.
Phải
chăng bạo động là một vấn đề thuộc về con người? Là bản năng, bản tánh? Lúc nào
thì một người được quyền bạo động -trong trường hợp nào thì được coi là sức
mạnh?
Dĩ
nhiên bạo động là một phần của bản tánh con người, thế nhưng bản tánh này có
nhiều mặt khác nhau và tôi không tin rằng bạo động là một trong những lãnh vực
quan trọng đáng kể. Lúc mới sinh ra hầu như ta u mê trước mọi chuyện, nhưng rồi
theo năm tháng nhờ được học tập ta bớt dần ngu dốt. Như vậy là ta đã thay đổi
tình huống ban đầu. Cũng thế, ta được sinh ra với các thói xấu như thù ghét,
hung hăng gây hấn, nhưng do tập luyện ta vẫn có thể và phải thay đổi được
chúng.
Câu hỏi của qúy vị đặt ra là trong trường hợp nào sự bạo động được biện minh.
Tôi nghĩ rằng điều quan trọng đầu tiên là ta cần phải phân biệt được sự giận dữ
và thù hận. Có thể có lúc giận dữ mang khía cạnh tích cực, hữu ích trong trường
hợp nó mang lại một đáp ứng nhanh chóng. Tuy nhiên nói chung tôi cho rằng giận
dữ là một dấu hiệu của sự yếu đuối; lòng khoan thứ mới là dấu hiệu của sức
mạnh.
Thế
nào là tha thứ?
Lòng
tha thứ? Ðây là một tình cảm qúy báu, quan trọng vô cùng! Tuy nhiên điều
này không có nghĩa là bạn nhắm mắt lại và quên đi những điều xấu ác mà người ta
gây ra cho bạn; bạn phải ghi nhớ chúng. Thế nhưng do thương yêu và kính
trọng tha nhân cũng như các lý do khác đã ngăn cản bản không trả đủa lại những
hành vi xấu ác đó. Ðây mới là điều quan trọng.
Thưa
Ngài, trẻ em Tây Tạng hiện nay vẫn còn tiếp tục theo đuổi việc học tập giáo lý
Phật giáo hay không?
Có
những người vẫn tiếp tục theo đuổi nhưng có người không. Tất cả đều tùy thuộc
lớn lao vào khung cảnh gia đình mà chúng sinh sống.
Ngài
có nghĩ rằng ở một mức độ nào đó thì một người Cơ Ðốc cũng giống như một người
Phật tử mà thôi?
Vâng,
có thể như thế. Có rất nhiều điều mà những người Phật tử có thể học hỏi
từ những kinh nghiệm của các anh chị em Cơ Ðốc giáo. Gần đây trong một dịp
viếng thăm một tu viện Thiên chúa giáo, tôi khám phá một điều là những tu sĩ ở
đây có rất nhiều điểm tương đồng với Phật tử Tây Tạng. Một vài khía cạnh như sống
nghèo khổ và tri túc chẳng hạn, tôi nghĩ rằng những tu sĩ này còn tỏ ra hơn hẵn
các tăng sĩ Tây Tạng chúng tôi, một số có thể đang có một đời sống khá tiện
nghi. Nếu những tăng sĩ Tây Tạng có thể học hỏi được một vài điều từ các
tu sĩ Cơ Ðốc, những người Cơ Ðốc giáo cũng có thể học được từ những người bạn
Tây Tạng về kỹ thuật phát triển lòng từ, tình thương yêu, công phu nhất-điểm
thiền định, cũng như để cải thiện lòng vị tha. Về những lãnh vực vừa nói, cũng
chẳng có gì khó khăn khi vay mượn những kỹ thuật đặc biệt này của Phật giáo,
như một số những người bạn Cơ Ðốc của chúng tôi đang làm. Khi các tôn
giáo khác biệt cùng ngồi lại với nhau, sẽ có rất nhiều điều người ta có thể học
hỏi lẫn nhau.
Ngài
có nghĩ rằng chủ trương bất bạo động của Ngài có thể dẫn đến sự diệt chủng nhân
dân Tây Tạng?
Bất
bạo động về lâu về dài vẫn là phương pháp đấu tranh tốt nhất, sâu sắc
nhất. Cụ thể là do lựa chọn đường lối này mà càng ngày chính nghĩa của
TâyTạng càng được đông đảo nhân dân Trung quốc ủng hộ.
Thưa
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài có những lời khuyên nào cho giới cư sĩ để họ có thể
tiến bộ trong tu tập nhằm phát triển lòng từ và nhân ái?
Ðiều
trước tiên là ta phải nhận thức được khả năng vô lượng ở trong ta. Trong Phật
giáo chúng tôi gọi đó là Phật tánh hiện hữu trong mỗi cá nhân. Nhưng cho dù
không bước vào lãnh vực này, đã là con người, chúng ta đều có một số tình cảm
nhất định, chẳng hạn như lòng quyết tâm hoặc trí thông minh; sự kết hợp của hai
yếu tố này sẽtạo nên những cống hiến đáng kể. Ðiều quan trọng là chúng ta
nên liên kết trí thông minh của mình với thiện ý. Không có trí thông minh chúng
ta không thể hoàn tất bất cứ việc gì. Không có thiện ý chúng ta sẽ không biết
được việc hành xử trí thông minh của mình sẽ mang lại xây dựng hay hủy diệt. Ðó
là lý do tại sao điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải có thiện tâm, và
đừng quên rằng những phẩm chất này là một phần trong bản tánh cơ bản của con
người.
PHẦN THỨ HAI
TÂM LINH VÀ CHÍNH TRỊ
TỪ BI
Thay
mặt toàn thể nhân dân Tây Tạng, tôi xin trân trọng cảm ơn tất cả qúy vị, những
người đã quan tâm sâu xa đến nền văn hoá và truyền thống của Tây Tạng trên cả
hai bình diện tinh thần lẫn thế tục. Xin cảm ơn một lần nữa về những gì mà qúy
vị đang góp tay để gìn giữ cho những truyền thống này không bao giờ bị mai một.
Hôm
nay tôi sẽ xin được hầu chuyện cùng qúy vị về vấn đề bình an tâm hồn. Lý
do mà nền văn hóa Tây Tạng có một tầm mức quan trọng như thế - ít nhất đối với
tôi- vì nền văn hóa của chúng tôi có một tiềm năng lớn lao trong việc làm tăng
tiến sự bình an tâm hồn. Trong một giai đoạn cực kỳ khó khăn như mọi người đều
biết, xảy ra tại Tây Tạng hồi gần đây, một trong những yếu tố đã giúp chúng tôi
giữ vững niềm tin, không mất hy vọng chính là nhờ bản sắc đặc biệt của nền văn
hoá đó.
Mặc
cho bao thử thách và tình huống khó khăn, nền văn minh này đã cho phép chúng ta
bảo tồn được sự thanh thản và an bình tâm hồn. Gần đây tôi càng ngày càng có
dịp được tiếp xúc với khá nhiều các nhà khoa học phương Tây, thảo luận cùng họ
về những mối bực dọc, khủng hoảng tâm thần mà con người hôm nay đang mắc phải
cũng như tìm kiếm những phương thức khả dĩ có thể chữa trị chúng. Họ đã cật vấn
tôi khá lâu về sức mạnh và tình trạng tâm thần của nhân dân Tây Tạng, và họ đã
rất ngạc nhiên khi thấy mặc dù phải kinh qua những biến cố thương tâm, người
Tây Tạng vẫn giữ được cho mình một trạng thái bình ổn tâm hồn. Ðiều này đã được
đặc biệt ghi nhận ở một số người phải trải qua một thời gian dài trong các trại
tù, lao động khổ sai của Trung Cộng.
Tôi
xin được chia xẻ cùng qúy vị một trường hợp điễn hình. Vị phó trú trì của tu
viện Namgyal mới lưu vong qua Ấn Ðộ gần đây, đã bị Trung Cộng bắt bỏ tù từ năm
1959, rồi sau đó được chuyển vào trại lao động khổ sai, và bị đày ải trong
khoảng mười tám năm trời như thế. Sau khi đặt chân đến tu viện lưu vong của
Ngài tại Ấn Ðộ, chúng tôi lại có dịp chuyện trò tán gẫu với nhau. Ngài đã kể
lại cho tôi nghe về cuộc đời và những kinh nghiệm sống mà Ngài đã trải qua.
Ngài có nói đến chuyện sau khi bị rơi vào tay Trung Cộng, Ngài ở vào một trạng
thái khá nguy hiểm đối với một người tu sĩ, đó là khả năng có thể đánh mất lòng
từ đối với những kẻ đã hành hạ tra tấn Ngài. Ðây là một nhận định rất đáng lưu
tâm!
Tôi
thường hay trêu chọc, bảo rằng suốt qua một thời gian dài gian khổ bị Trung
Cộng hành hạ kỹ như thế mà khuôn mặt của ông ta chẳng hề đổi thay gì cả. Mặc dù
ông ấy già hơn tôi, nhưng tóc lại còn ít bạc hơn tôi nữa -qúy vị có thể không
trông thấy tóc bạc của tôi đâu vì tôi mới cạo đầu sáng nay! Nhưng điều đáng nói
hơn hết là ông ấy vẫn luôn giữ được trên môi một nụ cười tuyệt diệu. Theo tôi,
tất cả có được đều do nền văn hoá của Tây Tạng, của Phật giáo.
Cũng
có thể lấy kinh nghiệm khiêm tốn của tôi làm một thí dụ. Là một tu sĩ Phật
giáo, tôi được đào luyện về tu tập, học hỏi về triết lý và giáo lý Phật giáo,
nhưng chẳng có một chút chuẩn bị nào để đối phó với những yêu cầu của
thời đại tân tiến. Thế mà tôi đã phải gánh vác những trách nhiệm khá lớn lao.
Tôi đã bị mất tự do ở vào tuổi mười sáu và mất nước lúc lên hăm bốn tuổi. Tôi
đã phải sống kiếp lưu vong trong suốt ba mươi bốn năm qua, làm thân tỵ nạn tại
một xứ sở ngoại quốc. Trong suốt thời gian này, trong khi đang phục vụ cho cộng
đồng Tây Tạng lưu vong, đất nước chúng tôi vẫn còn đang gánh chịu biết bao điêu
linh và thống khổ. Mặc dù với tất cả những thảm trạng như thế, tôi vẫn giữ được
tâm hồn mình, bình an, thư thái.
Trong
một vài trường hợp khách du lịch trở về từ Tây Tạng hoặc các trại tỵ nạn tại Ấn
Ðộ thường có một ấn tượng sai lầm rằng người Tây Tạng hiện đang sống có vẻ rất
hạnh phúc, luôn luôn mĩm cười, có gì là đau khổ đâu. Nhận định sai lầm này có
thể là điều bất lợi duy nhất cho thái độ tinh thần của chúng tôi.
Làm
thế nào để phát triển sự bình an và thanh thản tâm hồn? Tôi luôn nghĩ rằng bản
tánh của con người là tốt đẹp. Thực tế mà nói, trong mỗi chúng ta không phải là
không có những tình cảm ganh tỵ, hận thù, tuy nhiên tôi vẫn luôn tin rằng bản
chất đích thực của con người vẫn là lòng yêu thương trìu mến và nhân ái. Từ
ngày mở mắt chào đời cho đến khi thở hơi cuối cùng, sự hiện hữu của ta gắn bó
chặt chẽ với yêu thương và nồng ấm tình người. Một thực tế mà mọi người
đều biết là trẻ con nếu được nuôi dưỡng trong một gia đình đầy tình yêu thương
thường có nhiều triển vọng phát triển đầy đủ nhân tính tốt đẹp, trong khi những
đứa trẻ trưởng thành trong một bầu khí thiếu vắng tình thương, từ bi nhân ái
chung cuộc đều có những thái độ tiêu cực trong đời sống cũng như tạo nên những
căng thẳng bất cứ nơi nào mà họ có mặt. Sự hiện hữu hay thiếu vắng tình thương
yêu, từ ái trong gia đình gây nên một tác động rất hiển nhiên. Các y sĩ
và nhà khoa học cho biết rằng trạng thái tâm hồn tĩnh lặng là một yếu tố then
chốt cho sức khỏe của con người. Thêm vào đó, những tuần lễ đầu tiên sau khi
chào đời, những tiếp xúc thể xác giữa đứa bé và người mẹ hay bất kỳ ai đó, là
một yếu tố quan trọng hàng đầu cho việc đánh thức và phát triển bộ óc của đứa
trẻ.
Chúng
ta ai cũng biết rằng những lúc mà tâm trạng mình đang phấn chấn vui vẻ, có cảm
tưởng như cả thế giới đang mĩm cười với mình, ta sẽ chấp nhận những khó khăn
hay tin buồn một cách dễ dàng hơn là lúc mà tâm hồn ta đang buồn bả, hoang mang
giao động hay bất ổn, lúc đó chỉ cần một biến cố nhỏ cũng đủ làm cho ta nổ bùng
những tình cảm tiêu cực. Nếu đời sống của chúng ta cứ luôn bị những tình cảm
tiêu cực này chế ngự , chúng ta sẽ không còn ăn ngon miệng, bị mất ngủ hoặc đau
ốm bệnh hoạn mà kết quả là đời sống của chúng ta sẽ bị thu ngắn lại. Tình trạng
thư thái tâm hồn vì thế rất quan trọng.
Con
người sống trong xã hội phương Tây thường rất chính xác như một bộ máy, họ
thích hoạt động một cách tự nhiên hơn là do động cơ thúc đẩy. Theo tôi, động cơ
thúc đẩy mới là điều quan trọng, bởi lẽ chúng ta rất khó có thể phê phán giá
trị của một hành động nếu không liên hệ đến cái gì đang nằm đàng sau hành động
đó. Nói cho cùng, năng lực của đời sống, của hoạt động nhân loại chính là
ý hướng. Nó diễn ra trong tư tưởng của chúng ta, cũng giống như sự hiện hữu của
vô vàn các phẩm vật trên thế gian này -có cái ích lợi có cái độc hại- mà ta
luôn cố gắng tìm cách thu thập hay loại bỏ; trong thế giới nội tâm, trong tâm
hồn của ta cũng thế, cũng chất chứa đủ trăm, ngàn loại tư tưởng khác nhau. Có
cái rất hữu ích vì chúng mang đến cho chúng ta hạnh phúc, cho tâm hồn ta
thư thái và thêm sức mạnh. Nhưng có cái gây phiền nhiễu ta, làm cho ta mất tinh
thần, khủng hoảng và thậm chí đẩy ta đến chỗ tự vẫn.
Tư
tưởng và tình cảm vì thế có thể là tích cực hay tiêu cực. Cho nên điều trước
tiên ta phải nhận chân giá trị của nó trước khi bồi dưỡng những cái tích cực và
loại bỏ những cái tiêu cực. Bằng cách đó, chúng ta có thể đào luyện được sự
bình an tâm hồn. Mấu chốt của vấn đề là khả năng phân biệt được những tư tưởng
nào có ích hay không. Phương cách hay nhất là chúng ta không nên để cho mình bị
vướng mắc bởi những tư tưởng, tình cảm đó. Giản dị nhất là xem chúng như một
phần của tổng thể của ta và không có gì để phải bận tâm với chúng. Những khi mà
chúng ta phải đối đầu với vấn nạn hay hiểm nguy, tình cảm giận dữ và hận thù có
vẻ như che chở ta, cho ta những nguồn năng lực mới. Tuy nhiên sự chấp trước âm
thầm len lỏi sâu vào tâm hồn ta; và ta chào đón chúng như một người bạn cố tri
thân ái. Chung cuộc, người “bạn cố tri” này sẽ là kẻ lừa phỉnh ta không thương
tiếc. Trong số những loại tình cảm này, giận dữõ và sợ hãi chẳng hạn, sẽ
nhanh chóng phơi bày bộ mặt thật của chúng, còn những tình cảm khác như chấp
trước sẽ lần hồi tạo nên những hệ qủa tiêu cực theo với thời gian. Một khi mà
chúng ta biết rõ được bản chất của các thái độ tiêu cực và nhận diện một cách
đúng đắn các hậu qủa do chúng mang lại, ta sẽ rất dễ dàng cảnh giác chúng.
Từ
đó chúng ta có thể bắt đầu giải trừ chúng đểø vun xới các tình cảm tốt
đẹp -từ bi, hỷ xả và thiện cảm. Bằng cách này chúng ta có thể trưởng dưỡng
những tình cảm tích cực và làm suy yếu dần những tình cảm tiêu cực. Ngay cả cho
dù chúng vẫn còn tiếp tục xuất hiện cũng sẽ chỉ là những tình cảm thoáng qua,
không lưu lại một dấu ấn rõ rệt nào trong tâm trí chúng ta. Trong một vài
trường hợp, tốt nhất là ta cứ việc bày tỏ nổi giận dữ hay hối hận đối với những
việc làm trong qúa khứ để loại trừ những cảm giác này. Tuy nhiên, một cách tổng
quát, nên lưu ý rằng nếu ta cứ để cho sự giận dữ và các tình cảm tiêu cực khác
bộc phát một cách dễ dàng, chúng sẽ trở thành thói quen và lần hồi biến ta
thành một người nổi nóng khá thường xuyên. Ðó là lý do tại sao mà tôi cho rằng
chúng ta cần phải áp đặt một số biện pháp kỹ luật để rèn đúc tâm hồn mình. Thứ
kỹ luật này không thể được áp đặt từ bên ngoài; chúng phải được áp đặt tự bên
trong do trí thông minh sẵn có của mỗi người. Bằng cách này ta sẽ chấp nhận
chúng một cách dễ dàng.
Ðể
huấn luyện tâm hồn, thời gian là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ðừng bao giờ
trông chờ việc ta có thể hoàn toàn chuyển hóa trong một vài phút, hay thậm chí
một vài tuần, khi nghĩ rằng ta đang đón nhận ân sủng từ một bậc giác ngộ
có thể giúp cho ta đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng. Ðó là một thái độ hoàn
toàn không thực tế. Công việc tu tập đòi hỏi thời gian, trong nhiều năm, có khi
nhiều thập kỷ. Thế nhưng nếu chúng ta kiên trì, nắm vững mục tiêu và mọi phương
tiện để đạt đến cứu cánh, chắc chắn ta sẽ thu hoạch được những tiến bộ theo
thời gian.
Làm
thế nào để chúng ta giảm thiểu dần sự giận dữ và thù hận? Trong một vài trường
hợp, ví dụ như nếu động cơ thúc đẩy là lòng từ bi, giận dữ có thể là một khía
cạnh tích cực. Thù hận ngược lại, luôn luôn là một tình cảm tiêu cực. Chúng ta
phải đo lường và nhận thức được bản chất độc hại của những loại tình cảm khốn
khổ này như lòng thù hận chẳng hạn. Như tôi đã từng phát biểu trước đây, sự hận
thù làm cho chúng ta mất đi cả sức khỏe lẫn bạn bè cũng như nó sẽ làm ung thối
cả cuộc đời ta. Những tình cảm tiêu cực gây nên nhiều vấn nạn ở mọi cấp độ khác
nhau: cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia, cũng như cả quốc tế. Lịch sử nhân
loại cho chúng ta thấy rằng những kẻ gây nên những khổ đau khôn cùng cho kẻ
khác thường bị thúc đẩy bởi nỗi giận dữ vô bờ và lòng tham lam quá độ.
Thái độ như thế đã được bắt nguồn từ vô minh. Ðiều này không có nghĩa
rằng những người này có tâm địa ác độc, chung quy họ cũng chỉ là những con
người. Tuy nhiên họ đã để cho tâm trí của mình bị chế ngự và hướng dẫn một cách
mù quáng bởi những tình cảm tiêu cực, biến họ trở thành những kẻ sát nhân.
Nhìn
vào lịch sử nhân loại một lần nữa ta sẽ thấy rằng tuyệt đại bộ phận những thành
công kiệt xuất đều được thực hiện bởi những con người có lòng vị tha và tâm hồn
bình ổn. Ða phần những nhạc sĩ tài danh những nhà nghệ sĩ lớn đều có một cuộc
sống nội tâm an bình. Dĩ nhiên không phải là không có ngoại lệ, tuy nhiên một
cách tổng quát mà nói, nhà nghệ sĩ rung lên những tiếng tơ đồng phát xuất từ sự
tĩnh lặng nội tâm nhằm giải bày những nỗi lòng sâu kín của mình. Bằng cách đó,
nhà nghệ sĩ tạo ra niềm hạnh phúc và mang đến nguồn cảm hứng cho kẻ khác.
Chúng
ta cũng có thể rút ra một bài học trong thời cận đại qua tấm gương của Mahatma
Gandhi, một nhân vật kiệt xuất có ý thức kỷ luật tự giác cao. Ông ta sống
rất thỏa mãn hạnh phúc với những nhu cầu tối thiểu. Mặc dù được đào tạo từ nền
giáo dục Tây phương và ý thức được những đặc quyền đặc lợi của một cuộc sống
tiện nghi vật chất và những cơ may mà nền văn minh đó mang lại, ông đã chọn lựa
sống một cuộc sống tuyệt đối đơn giản tại Ấn Ðộ, chẳng khác gì một kẻ ăn mày.
Ðiều này phản ánh một tinh thần kỷ luật tự giác và một tâm hồn vị tha cao quý. Tất
cả mọi khía cạnh tích cực mà con người cố gắng để hoàn tất đều là kết qủa của
những tình cảm tích cực này của tâm hồn.
Kinh
nghiệm của chính bản thân tôi, cũng như của nhiều người khác, cho ta thấy ở mức
độ nào các thái độ tinh thần tích cực mang lại hạnh phúc cho cá nhân mình và
cho người khác, và ở mức độ nào các thái độ tiêu cực trở nên tàn hại. Trên căn
bản đó mỗi cá nhân cần tự mình nỗ lực vận dụng những năng lực sẵn có để phát
triển tâm hồn mình.
Con
người sinh sống trong một môi trường xã hội nhất định. Mặc dù ai cũng công nhận
rằng tốt nhất là chúng ta có nhiều bạn và không có kẻ thù, nhưng rồi mọi người
đều có cả bạn lẫn thù trong cái đám đông đó. Nhưng bạn và thù thật ra
không hiện hữu y như thế. Tình thân hữu và sự thù địch chỉ là kết qủa của nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố hàng đầu chính là thái độ tinh thần của chúng
ta. Khi chúng ta mở rộng vòng tay ra với tha nhân và sẵn sàng cống hiến tình
thân hữu và thân ái của ta đối với họ, lập tức chúng ta đã tạo dựng nên một bầu
khí tốt lành. Ngay cả không nhận thức được điều này, họ cũng sẽ tiến đến ta bằng một khuôn mặt rạng rỡ nụ cười -không phải là khuôn mặt căng
thẳng hay nụ cười giả dối mà là sự chân thành cởi mở. Ngược lại nếu ta
chỉ sống bằng những ác niệm, những tư tưởng tiêu cực, không thèm đếm xỉa đến
quyền lợi và nguyện vọng của tha nhân; hay nói một cách khác, chúng ta chỉ nghĩ
đến cá nhân mình và có khuynh hướng khai thác, lợi dụng kẻ khác cho những mục
tiêu cứu cánh của mình, tình huống sẽ trở nên tồi tệ. Cuối cùng rồi ngay cả
những người thân cận nhất trong gia đình cũng sẽ lánh xa ta. Như vậy, vấn đề đã
trở nên rõ ràng rằng bạn hay thù chẳng qua chỉ là sản phẩm của chính thái độ
của chúng ta.
Một
số khác đã suy nghĩ một cách sai lầm rằng tiền bạc có thể mang đến cho ta
bạn bè. Không chắc như vậy -bởi vì nó đồng thời cũng mang đến kẻ thù! Hãy
dừng lại một chút và suy nghĩ về những người đang chào đón ta với nụ cười rộng
mở trên khuôn mặt: Họ thật sự là bạn ta hay chỉ là bạn của túi tiền mà ta đang
có? Không thể biết được. Bao lâu mà ta còn tiền, có thể họ sẽ đến cụng ly sâm
banh với ta và mọi chuyện đều diễn ra một cách tốt đẹp. Thế nhưng khi ta bắt
đầu rỗng túi, bạn bè đều lần lượt biến mất như là một phép lạ. Bây giờ thì rất
khó mà điện thoại cho họ, hoặc có thể ta lại bị họ cúp máy không chừng. Tiền
bạc và của cải vật chất dĩ nhiên là cần thiết nhưng chúng không phải là vật
thiết thân. Sự giàu có thật sự chỉ được tìm thấy bên trong của mỗi con người.
Từ
bi, hỷ xả, hy vọng và nhẫn nhục là những tình cảm tốt đẹp mà tất cả các tôn
giáo lớn đều cố gắng phát huy và củng cố. Bạn không nhất thiết phải là người có
tín ngưỡng -mọi người đều có quyền có tín ngưỡng hay không- mới có thể làm tăng
tiến những thái độ tích cực này trong tâm hồn mình. Chúng ta nên nhớ rằng các
tôn giáo lớn của thế giới đều chuyên chở chung một thông điệp và khuyến
khích phát triển những đức tính tốt đẹp của con người. Mặc dù giáo điều của mỗi
tôn giáo có thể khác nhau nhưng tựu trung, thông điệp chính đều giống nhau.
Trên căn bản của mẫu số chung này, thông điệp của thương yêu và từ bi sẽ được
tung ra khắp tận cùng thế giới nếu tất cả những ai đang bước đi trên hành trình
tâm linh cùng ngồi lại làm việc với nhau trong tinh thần hoà điệu và tương
kính.
Tuy
nhiên nếu những kẻ luôn mạnh miệng cổ võ những phẩm chất tốt đẹp của con
người lại quay ra cải vã chỉ trích lẫn nhau thì làm sao họ lại có thể rao
truyền thông điệp này đến kẻ khác? Chắc chắn mọi người sẽ nói rằng, với chút ít
mai mỉa: “Coi bọn họ kìa! Khoan dung và tương kính ở chỗ nào? Ngay cả bọn họ
còn chẳng chịu được nhau thì nói gì ai.” Thế nên nếu chúng ta muốn giúp đỡ nhân
loại một cách thực tiễn, chúng ta phải bắt đầu bằng việc biến mình thành một
tấm gương tốt của lòng tương kính, sự hoà hợp và tinh thần hợp tác trước mắt
nhìn của thế giới. Nhìn từ xa, những cách biệt có vẻ như rất lớn lao. Tuy
nhiên nếu ta chịu khó tiếp cận với tha nhân và chia xẻ những kinh nghiệm của
họ, chúng ta sẽ biết cách làm thế nào để hòa điệu với kẻ khác cho dù có những
khác biệt về đức tin, giáo lý; và làm thế nào để cùng nhau phát triển các khía
cạnh tích cực của đời sống nhân loại. Cho nên việc quan trọng hàng đầu là duy
trì mối quan hệ tốt đẹp, và các phong trào tôn giáo khác biệt cần nên
chia xẻ, giao tiếp cùng nhau. Cho dù tất cả những xung đột do nguyên nhân bất
đồng tín ngưỡng xảy ra tại Bosnia hay Phi Châu, luôn luôn vẫn có những bước
khích lệ hướng về việc hòa giải. Tuy nhiên cần có những nỗ lực kiên trì trong
hướng đó!
Thưa
Ngài, gần đây chúng tôi có dịp được đọc một bản tài liệu liên quan đến nỗi
thống khổ của Tây Tạng, trong đó kể cả lời khai của một nhà sư bị tù đày hơn ba
mươi ba năm trời -hai mươi bốn năm trong nhà tù và chín năm trong các
trại lao động khổ sai. Ông ta đã trải qua những đau đớn bởi những nhục hình tra
tấn khó tưởng tượng nỗi, biến ông trở thành kẻ tàn phế suốt đời. Như thế bằng
cách nào chúng ta có thể đạt được sự bình an tâm hồn vốn hàm chứa thanh thản và
đức hạnh khi chúng ta được nghe những câu chuyện như thế? Phải chăng bày tỏ nỗi
giận dữ và làm một cái gì đó một cách thực tiễn là những đáp ứng tương xứng
nhất?
Ðiều
quan trọng nhất là ta không thờ ơ lãnh đạm đối với những chuyện như thế, ta cảm
nhận sâu xa tình huống này nhưng trong một chiều hướng xây dựng hơn, không biết
qúy vị có hiểu điều tôi muốn nói không. Chúng ta không nên để cho mình bị tràn
ngập bởi những cảm thức đến độ tê cóng. Tôi không chắc là tôi có hiểu rõ câu
hỏi của qúy vị hay không, tuy nhiên nếu vấn đề đặt ra là để duy trìõ sự an bình
nội tâm một cách có hiệu quả khi phải đối đầu với những tình huống như qúy vị
vừa trình bày, điều này tùy thuộc một phần lớn vào mức độ phát triển tinh thần
của mỗi cá nhân.
Với
những thử thách khủng khiếp mà Ngài và dân tộc Ngài đang trải qua và tiếp tục
chịu đựng, có khi nào Ngài nghĩ đến thiên nhiên, đến hoa viên cây cảnh? Ngài có quan niệm rằng chúng là những biểu hiện rõ nét của nền văn minh? Theo ý
kiến của Ngài, cảnh trí có cho ta một thông điệp nào không? Những hoa viên,
cảnh trí có thể giúp ta tìm ra được sự bình an tâm hồn, giúp ta nhận thức, đưa
ta đến con đường minh triết?
Tôi
tin chắc rằng mỗi khi tinh thần ta bị khủng hoảng, nếu ta chịu khó bước ra ra
bên ngoài ngắm nhìn phong cảnh, thở hít bầu không khí trong lành và lắng nghe
chim chóc ca hót, tâm hồn chúng ta sẽ tạm thời lắng xuống. Nói cho cùng, mặc dù
với tất cả kiến thức và khả năng, chúng ta vẫn là một phần tử của thiên nhiên,
là một sản phẩm của thiên nhiên. Tổ tiên của chúng ta hàng ngàn năm trước đã
sống rất gần gũi với thiên nhiên. Hôm nay trong chúng ta vẫn còn lưu lại những
dấu vết của đời sống đó: ngay cả trong những ngôi nhà tân tiến nhất, chúng ta
vẫn thích trang hoàng đồ đạc trong nhà bằng gỗ và cây kiểng xanh tươi -cái đó
như đã ở trong máu huyết của chúng ta.
Trong
quá khứ, tất cả cuộc sống con người hầu như nương dựa vào cây cối. Hoa là vật
điểm trang, trái cây là thực phẩm, lá và vỏ cây cho ta áo quần và nơi trú ẩn.
Chúng ta lẫn trốn trên những cành cây để đề phòng thú dữ. Chúng ta dùng
củi để sưởi ấm khi lạnh giá, và khi về già chiếc gậy nâng đỡ ta trước sức nặng
của thời gian, đó cũng là vũ khí để ta tự bảo vệ mình. Chúng ta đã gắn bó với
cây cối như thế. Bây giờ, trong các văn phòng cực kỳ hiện đại, chung quanh ta
là những máy móc tối tân, những dàn vi tính với hiệu suất cao, ta dễ dàng quên
đi những mối liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên. Cũng là chuyện rất bình thường
khi ta cố gắng cải thiện phẩm chất của đời sống thông qua những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên đồng thời một điều cũng khá quan trọng là nếu ta
biết được những giới hạn của sự tiến bộ đó và giữ cho mình tỉnh táo để thấy một
sự thực là ta vẫn còn nương tựa vào thiên nhiên. Nếu môi trường sống của chúng
ta bị thay đổi đến tận gốc rễ, chúng ta sẽ không còn cách gì để tự bảo vệ chính
mình. Ðó là lý do tại sao cả tư duy lẫn hành động của chúng ta đều nền đi theo
con đường Trung Ðạo.
Trong
trí tưởng của người Tây phương, thường có sự mù mờ giữa sự ức chế tình cảm và
sự tìm kiếm an bình nội tâm. Khi chúng ta ức chế một cái gì đó, chúng ta thường
mang những gì được coi là vấn nạn trong đời sống của mình đem đi dấu biệt vào
một xó xỉnh nào đó và nghĩ rằng ta có thể quên chúng đi để có thể tiếp tục sống
mà khỏi phải đối diện với chúng. Thưa Ngài, Ngài có suy nghĩ gì về nghệ
thuật ức chế này?
Tôi
nghĩ là tôi đã từng đề cập phớt qua đến vấn nạn này khi nói rằng, trong một số
trường hợp, cụ thể là sự sợ hãi chẳng hạn, không nhất thiết là một điều xấu khi
bạn cứ cho những tình cảm này bộc phát ra để rồi loại bỏ chúng. Tuy nhiên điều
này không phải là không có những mối hiểm nguy. Thực vậy, nếu ta thiếu ý thức
kỷ luật tự giác và cứ để mặc cho tất cả mọi loại tình cảm xâm nhập tâm trí ta
tuôn ra một cách tự nhiên, lấy cớ là ta phải để cho nó bộc phát, chúng ta sẽ đi
đến chỗ quá trớn và không chừng vi phạm cả luật pháp quốc gia. Trên bình diện
xã hội hay cá nhân, chúng ta cần có một thứ kỷ luật nội tâm để hướng dẫn tư duy
của ta theo một chiều hướng xây dựng. Những tình cảm của con người thường không
có giới hạn, và sức mạnh của những tình cảm tiêu cực là vô tận.
Tuy
nhiên tôi không nghĩ rằng trong trường hợp như thế chúng ta có thể gọi đó là ức
chế. Ngược lại, đây là vấn đề có vẻ rất tích cực. Chúng ta học hành và tu tập
với mục đích từng bước loại bỏ sự vô minh. Tu tập nhiều khi không phải là
chuyện dễ dàng. Mỗi khi mệt mỏi ta tưởng như sẽ không còn thể nào tiếp tục được
nữa. Thế nhưng khi bắt đầu ý thức được những lợi lạc của sự tu tập, chúng ta sẽ
tự thiết định cho mình một thứ kỷ luật và nỗ lực vươn theo. Bằng học tập, chúng
ta mở rộng tầm kiến thức của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là ta ức chế
được vô minh!